Kiyonori Kikutake: Cấu trúc của tương lai

Trong nhiều năm qua, các kiến ​​trúc sư trẻ Nhật Bản phải đối mặt với thách thức xây dựng lại đất nước sau khi bị tàn phá tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Và Kikutake là một trong những người tài năng nhất.

Kiyonori Kikutake (bên phải) với Fumihiko Maki năm 1969.
Ảnh: Taschen

Chuyển hóa luận: Lý thuyết và thực tiễn

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi cuốn sách Chuyển hóa luận được xuất bản và trao tới tay của những người tham dự Hội nghị Thiết kế Thế giới năm 1960 tại Tokyo. Mặc dù được nhiều độc giả coi là một bản tuyên ngôn, nhưng thực tế, cuốn sách nhỏ này là một tập hợp các bài tiểu luận và dự án thiết kế đô thị trước khi đi vào thực tiễn của nhà phê bình kiến ​​trúc Kawazoe Noboru và bốn kiến ​​trúc sư trẻ: Kiyonori Kikutake, Kishō Kurokawa, Fumihiko Maki và Masato Ōtaka.

Các văn bản và đề xuất thiết kế của họ xoay quanh một ý tưởng cốt lõi: tốc độ thay đổi ngày càng khác nhau ở các thành phố đòi hỏi những mô hình mới cho thiết kế kiến ​​trúc và cơ sở hạ tầng. Thông điệp này mang giá trị sức mạnh rất lớn trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra ngày một nhanh chóng. Vì lẽ đó, cuốn sách đã được xuất bản hàng loạt vào giữa thế kỷ 20. Tư tưởng Chuyển hóa luận sớm tìm được đường vào các cuộc thảo luận học thuật và chuyên nghiệp ở những nơi xa xôi trên thế giới. Ở châu Âu thời hậu chiến, các nhóm tiên phong như Archigram đã đưa ra giả thuyết về một thành phố siêu cấu trúc không bao gồm công trình nào cả mà đó là một hệ khung để chèn các căn hộ hoặc các bộ phận được tiêu chuẩn hóa và cấu trúc đô thị cuối cùng lại được định hình bởi xã hội và các thế hệ sinh sống trong đó; nhưng những ý tưởng này chưa bao giờ thành hiện thực. Ngược lại, với thuật ngữ tabula rasa trong nhận thức luận, Nhật Bản dũng cảm đón nhận các kỹ thuật xây dựng sáng tạo và các phương pháp lập kế hoạch từ trên xuống, trở thành mảnh đất thử nghiệm màu mỡ cho triết lý Chuyển hóa. Thật vậy, những năm 1960 hay những thập kỷ tiếp theo nhưng ở mức độ thấp hơn đã chứng kiến ​​vô số công trình kiến ​​trúc được xây dựng và chưa xây dựng phải vật lộn với những tác động của sự thay đổi chuyển hóa dù bằng cách này hay cách khác.

Nhóm công việc này gần đây đã khơi dậy sự quan tâm đặc biệt của các kiến ​​trúc sư đương đại, nhà thiết kế đô thị và nhà lý luận, có một sự trùng hợp là khoảng thời gian này hầu hết các thành viên và đồng nghiệp sáng lập của nhóm đã qua đời (Cố vấn Chuyển hóa luận Kenzō Tange, 1913 – 2005; Kurokawa, 1934 – 2007; Ōtaka, 1923 – 2010; và Kikutake, 1928 – 2011). Vào cuối đời, một số kiến ​​trúc sư trong số đó đã đồng ý phỏng vấn về các tác phẩm ban đầu của họ, tạo điều kiện cho nhiều nghiên cứu phê bình, triển lãm hồi tưởng và sách chuyên khảo hình thành. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ trong suốt sự nghiệp đa dạng của các nhân vật chính, Chuyển hóa luận không còn xuất hiện với chúng ta như một hệ tư tưởng thống nhất mà thay vào đó là một chuỗi các thử nghiệm mang tính tư duy và thiết kế của các tác giả tán thành những cảm nhận, triết lý và thậm chí cả mối quan hệ chính trị rất khác nhau. Ngày nay, không ai thu hút được sự quan tâm phê phán mạnh mẽ hơn người lãnh đạo trí tuệ và chủ mưu cốt lõi của nhóm, Kiyonori Kikutake. Mặc dù truyền thông cho rằng Kurokawa đã đạt được thành tựu lớn nhất cho phong trào với việc xây dựng Tháp Nakagin Capsule năm 1972 của mình, nhưng chính Kikutake mới là người có sự nghiệp hơn 50 năm khám phá sâu sắc và kiên trì nhất trong cuộc tranh luận của Chủ nghĩa Chuyển hóa luận về tuổi thọ của các tòa nhà và hệ thống của chúng. Các bài viết và tác phẩm của ông thu hút nhiều sự chú ý hơn nữa bởi vì chúng không phải là những tuyên bố đơn giản hay hào nhoáng mà được trình bày rõ ràng, đầy đủ về một thế giới quan bao gồm thẩm mỹ, chính trị và kinh tế, quy hoạch sử dụng đất, công nghệ và tâm lý con người.

Kiyonori Kikutake năm 1968. Ảnh: Taschen

Với tư cách là kiến ​​trúc sư, một trong những tài năng tuyệt vời của Kikutake là khả năng tổng hợp những tác động đa dạng này và công bố thành các bài tiểu luận có tính trí tuệ dựa trên các công trình đã xây dựng của ông; do mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng và viết lách, không có quyết định thiết kế nào là tùy tiện hoặc không liên quan đến lập trường của ông về nhiều mối quan tâm đương thời. Điều này đúng với các công trình được xây dựng có quy mô nhỏ đầu tiên của ông cũng như đối với tầm nhìn đô thị tương lai có quy mô lớn. Vào cuối những năm 1950, trong bối cảnh các kiến ​​trúc sư nổi tiếng của Nhật Bản như Tange, Kunio Maekawa, Junzō Sakakura, Takamasa Yoshizaka, Yoshirō Taniguchi và Kiyoshi Seike đang ở đỉnh cao năng lực sáng tạo của họ, kỳ lạ là tạp chí uy tín như Kenchiku Bunka đã mời một kiến ​​trúc sư mới ba mươi tuổi còn khá vô danh chiếm một bài luận dài cả trang giấy cùng hai trang ảnh mẫu về một dự án nhỏ chưa được xây dựng có tên Sky House vào cuốn tạp chí kiến trúc xuất bản thời điểm đó. Trên thực tế, Kikutake đã sớm được công nhận về tính nghiêm túc và tài hùng biện trong thông điệp của ông, vì vậy, đã làm dấy lên tranh luận về kiến ​​trúc đương đại giữa những người lớn tuổi hơn ông.

Các kiến ​​trúc sư cần phải hiểu sâu sắc hơn về vai trò của họ trong xã hội để giải quyết những bất ổn tâm lý và vấn đề xã hội cơ bản của các công dân đương thời trước khi xác định cách thức, địa điểm và những gì cần xây dựng.

Kikutake

Kikutake ủng hộ việc bắt đầu thiết kế không phải bằng một chương trình đã được định sẵn mà bằng những câu hỏi về cách một người sẽ sống và liên hệ với môi trường xung quanh. Một tầm nhìn độc lập và bao quát không bị cản trở bởi bất cứ thứ gì đã giúp ông hình thành một môi trường lý tưởng cho cư dân thành thị; tất cả những thứ khác trong thiết kế của Sky House bao gồm cả sự hoàn hảo trong từng chi tiết xây dựng đều xuất phát từ niềm tin này. Và chắc chắn rằng, các chiến lược về kết cấu và kỹ thuật được sử dụng trong Sky House không hề mới mẻ: cấu trúc trụ bê tông bên ngoài không bo góc, hệ sàn ô cờ kéo dài, hệ mái mỏng tạo hình hyperbolic paraboloid, các mô-đun nhà bếp và phòng tắm được đúc sẵn. Sự hiểu biết của chúng tôi về Sky House như một sự đổi mới về mặt kỹ thuật, chủ yếu dựa vào câu chuyện siêu việt của Kikutake về kiến ​​trúc và cư dân đô thị, từ đó khiến các kỹ thuật này trở thành những thành phần cần thiết trong kiến ​​trúc của ông.

Sky House năm 1958. Ảnh: Akio Kawasumi

Với danh tiếng của Kikutake – một người có tầm nhìn bao quát về quy hoạch đô thị – các tòa nhà ban đầu của ông, bao gồm cả công trình Sky House, đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kiến ​​trúc của Kikutake, đặc biệt là việc ông tập trung vào nghiên cứu và đổi mới trong thiết kế kết cấu. Theo thời gian, việc phân tích và tôn vinh các khía cạnh chính trị và xã hội trong công việc của ông đã trở nên dễ dàng hơn và ngày càng táo bạo, đồng thời, ông giao vai trò hỗ trợ cho các cuộc nghiên cứu công nghệ. Điều này cho thấy sự tự do trong các vấn đề thiết kế của kiến ​​trúc sư và các kỹ thuật xây dựng hiện thời mà ông sử dụng trên các công trình của mình. Mặc dù có tính đổi mới so với các tiêu chuẩn giữa thế kỷ 20, những công nghệ cần thiết để xây dựng toàn bộ thành phố nổi trên đại dương ngày nay có thể đã trở nên phổ biến hoặc lỗi thời nhưng gần như vẫn tương tự 50 năm trước. Tuy nhiên, cần nhớ rằng trong sự nghiệp của mình, Kikutake đã dành nhiều tâm sức hơn để giải quyết các vấn đề kỹ thuật ở quy mô tòa nhà hơn là ở quy mô thành phố; và chính hoạt động này là điều tôi muốn khám phá sâu hơn.

Trong mỗi dự án của mình, Kikutake hợp tác chặt chẽ với các kỹ sư, nhà sản xuất và nhà xây dựng, những người đang đi đầu trong lĩnh vực của họ; ông coi thử nghiệm công nghệ vừa là công cụ cho các dự án riêng lẻ, vừa là một chuỗi nghiên cứu liên tục có giá trị vượt qua bất kỳ ứng dụng cụ thể nào. Và không có gì lạ khi lần đầu tiên ông bắt đầu thử nghiệm kết hợp kỹ thuật mới vào trong kiến ​​trúc lại ở quy mô nhỏ, đây là bước đệm để có thể áp dụng táo bạo hơn ở quy mô lớn hơn trong các thiết kế tiếp theo. Khái niệm về cấu trúc hình học và hình thể có thể được thử nghiệm ở quy mô phòng và tòa nhà, sau đó được chuyển sang quy mô thành phố, là một sợi dây liên tục và xuyên suốt trong công việc của Kikutake. Đồng thời, các công trình được xây dựng không bao giờ chỉ là nguyên mẫu hay đại diện cho những tham vọng lớn lao hơn, mà chúng là một tập hợp các chi tiết độc đáo và đầy chất thơ của Kikutake để đáp ứng với địa điểm và mục đích sử dụng cụ thể. Các hình thái cấu trúc được đan xen linh hoạt vào trong các câu chuyện dự án cụ thể thường đem đến hiệu quả cao hơn là ý tưởng hình thành được lấy từ một dòng nghiên cứu nào đó.

Kỹ thuật xây dựng ở Nhật Bản giữa thế kỷ 20

Trước khi khám phá hai công trình đầu tiên minh họa những ưu điểm và thách thức vốn có trong phương pháp xây dựng của Kikutake, điều quan trọng là phải xem xét tình trạng chung của công nghệ xây dựng ở Nhật Bản những năm 1960. Vào thời điểm đó, bê tông cốt thép đã được coi là vật liệu kết cấu được các kiến ​​trúc sư trong nước lựa chọn trong hơn 40 năm, đặc biệt là những người làm việc trong các tổ chức và ủy ban công. Việc xây dựng khung mô-men bê tông cho đến nay vẫn là mô hình kết cấu phổ biến nhất, nhưng các kết cấu tấm và vỏ gấp cũng được sử dụng rộng rãi, cho phép xây dựng các kết cấu lớn, không cần các cột bên trong khán phòng, nhà máy, trung tâm trung chuyển và những nơi tụ tập khác. Mặc dù sau sự tàn phá của thời chiến, thép vẫn được sử dụng. Việc xây dựng khung thép tương đối đắt tiền và vật liệu này thường được giao một vai trò cụ thể (ví dụ như cấu trúc mái nhẹ, nhịp dài) trong một kết cấu bê tông khác. Do đó, bê tông cốt thép là lựa chọn mặc định và là trọng tâm của thử nghiệm công nghệ.

Trong thời kỳ trước chiến tranh, các kết cấu bê tông thường được ốp bằng đá, gạch, ngói và các loại thạch cao hoặc xi măng khác nhau. Ngược lại, trong thời kỳ hậu chiến, chất lượng của bê tông lộ thiên ngày càng được đánh giá cao về mặt thẩm mỹ, thậm chí là đáng mơ ước. Lấy cảm hứng từ tác phẩm “béton brut” đầy biểu cảm của Le Corbusier ở Pháp và Ấn Độ, các kiến ​​trúc sư Nhật Bản bắt đầu thử nghiệm không chỉ khả năng điêu khắc và kết cấu vượt trội của bê tông (bao gồm cả khả năng chống địa chấn tuyệt vời) mà còn cả chất lượng bề mặt thô của chúng. Mặc dù vào những năm 1960, Nhật Bản đã có một lượng lớn các tòa nhà bê tông cũ kỹ, nhưng khả năng chống chọi của bê tông lộ thiên trước tác động lâu dài của thời tiết dường như vẫn chưa được nhận thức đầy đủ. Trong tương lai, sự phát triển của các lớp phủ bền, trong suốt và chất kết dính hóa học giúp duy trì các kết cấu bê tông Nhật Bản trong tình trạng nguyên sơ. Công nghệ bê tông đúc sẵn là một bước tiến đáng kể trong ngành xây dựng của Nhật Bản trong những năm sau chiến tranh. Các yếu tố liên quan đến độ thanh mảnh, tinh xảo và phức tạp trong hoa văn của tấm ốp có thể được sản xuất trong các nhà máy ngoài công trường, sau đó được vận chuyển đến địa điểm xây dựng để lắp ráp dễ dàng bằng cách hàn, bắt vít hoặc đúc thêm.

Nhật Bản nổi tiếng là dễ bị tổn thương trước các trận động đất mạnh. Trong suốt chiều dài lịch sử kiến ​​trúc nơi đây, đặc biệt là trong thế kỷ qua, điều này vừa là hạn chế trong thiết kế kết cấu tòa nhà vừa là nguồn cảm hứng cho nghiên cứu sáng tạo về khả năng chống địa chấn. Các kỹ thuật xây dựng hiện đại được phát triển ở Châu Âu và Châu Mỹ để chống lại trọng lực và tải trọng gió, khi chuyển sang bối cảnh Nhật Bản, phải xem xét đến khả năng tải trọng ngang cực đại do động đất. Các hình thức xây dựng bằng bê tông đang được các kiến ​​trúc sư và kỹ sư ở phương Tây phát triển vào giữa thế kỷ 20 gồm khung mômen, tấm gấp, vỏ mỏng, tấm ván ép hai chiều,…cần được thử nghiệm trước một loạt điều kiện khắt khe và phức tạp về tải trọng ở Nhật; thường các yếu tố xây dựng (cột, dầm, tấm) cần phải dày hơn và được gia cố chắc chắn hơn. Do các cấu kiện nhịp ngang có trọng lượng lớn nên các nhịp tối đa có xu hướng đạt đỉnh từ 10 đến 12 mét trong kết cấu bê tông thông thường (con số này nhỏ hơn đáng kể so với những tiêu chuẩn trong kết cấu thép). Chỉ với sự ra đời của kỹ thuật dầm bê tông cốt thép dự ứng lực có độ bền cao vào những năm 1960 (giúp giảm lượng bê tông cần thiết ở mặt cắt ngang) thì công trình bê tông ở Nhật Bản mới bắt đầu đạt được nhịp dài hơn đáng kể. Mặc dù ban đầu, các kỹ thuật này được phát triển để xây dựng cầu, nhưng với khả năng giảm số lượng cột trong các tòa nhà thông thường đã sớm khiến chúng trở nên phổ biến trong thế hệ những người theo chủ nghĩa Chuyển hóa luận. Và việc chuyển đổi các kỹ thuật xây dựng từ cơ sở hạ tầng sang kiến ​​trúc (hoặc lấy con người làm trung tâm) như vậy đã gợi ra một số biểu hiện thiết kế mang tính khiêu khích nhất hiện nay.

Tòa nhà Hành chính ở Đại đền Izumo. Ảnh: japlusu.com

Khách sạn Tōkōen. Ảnh: DAAS

Tòa nhà Hành chính của Đại đền Izumo

Nếu không phải vì sự tách biệt khỏi các vấn đề của chủ nghĩa đô thị thì thiết kế của Kikutake cho Tòa nhà Hành chính của Đại đền Izumo (1961 – 1963) đã có thể được coi là một loại tác phẩm luận văn tinh túy. Chắc chắn đó là một công trình kiến ​​trúc vĩ đại bởi không nơi nào thể hiện được rõ hơn về sức mạnh trong trí tưởng tượng của Kikutake như ở đây khi ông tổng hợp các khía cạnh mang tính biểu tượng, kỹ thuật và trải nghiệm không gian thành một tác phẩm độc đáo. Để hiểu được thành tựu này, chúng ta cần thừa nhận những thách thức mà ông ấy phải đối mặt. Đại đền Izumo là một trong hai trung tâm quan trọng nhất của Nhật Bản đối với tôn giáo Thần đạo bản địa cùng với Đền Ise nổi tiếng hơn. Tọa lạc tại tỉnh Shimane trên bờ biển Nhật Bản, ở một góc xa xôi phía tây của đảo Honshū, ngôi đền gắn liền với truyền thống dân gian của Thần đạo vốn có tính hướng nội và bảo thủ. Hơn thế nữa, Đại đền nằm ở rìa phía bắc của Thành phố Izumo và tiếp giáp với hàng trăm mẫu rừng đang được bảo vệ và bảo tồn.

Tòa nhà Hành chính của Đại đền Izumo năm 2014. Ảnh: Mark Mulligan

Với địa điểm xa xôi cùng nhóm du khách gắn bó với truyền thống như này, thật khó để tưởng tượng rằng ngày nay lại có một kiến ​​trúc sư dám đề xuất sử dụng bê tông cốt thép như một phương pháp xây dựng được khuyến nghị để mở rộng khuôn viên của ngôi đền thay vì vật liệu bằng gỗ truyền thống. Và quả thực, ý tưởng của Kikutake đã không tìm thấy sự ủng hộ nào ở Izumo. Trong bối cảnh gỗ xây dựng chất lượng tốt ở Nhật Bản đã cạn kiệt từ thời chiến, các kiến ​​trúc sư ngày nay lựa chọn sử dụng bê tông cốt thép như một loại vật liệu không chỉ bền hơn mà còn có thể tái tạo nhiều đặc tính hơn về cấu trúc, hình dáng và kết cấu so với gỗ. Một mặt, nhiều ngôi đền và công trình kiến trúc đền thờ thời hậu chiến được xây dựng bằng bê tông cốt thép đã bắt chước lại các hình thức và hình tượng của kiến ​​trúc bằng gỗ (kết quả vẫn có chút sai lệch). Mặt khác, các kiến ​​trúc sư hàng đầu như Tange, Maekawa, Taniguchi và những người khác đã sử dụng kỹ thuật lắp ráp gỗ làm nguồn cảm hứng để thể hiện sự tinh tế và nhẹ nhàng tương tự trong bê tông, đồng thời, nghiên cứu các giới hạn kích thước kỹ thuật cụ thể cho bê tông đổ tại chỗ và bê tông đúc sẵn (thường xuyên đan xen cả hai hệ thống). Trong mười năm, toàn bộ thể chế của chính phủ về các công trình mang “Phong cách Nhật Bản” đã xuất hiện song song với một “cuộc tranh luận về truyền thống” (dentō ronsō), trong đó các yếu tố quen thuộc của Chủ nghĩa Hiện đại mang Phong cách Quốc tế (tấm, tường cắt, cột, dầm, ban công, đường ray, cửa sổ và bình phong) đã được điều chỉnh và định hình để nhấn mạnh sự tương đồng trực quan giữa khung gỗ Nhật Bản và cấu trúc khung bê tông. Tại Izumo, Kikutake không phải là người đầu tiên đưa ra ý tưởng thay thế gỗ bằng bê tông cùng việc kết hợp các cấu kiện tại chỗ và đúc sẵn thành một cấu trúc duy nhất. Nhưng thiết kế của ông đã đưa cả hai ý tưởng này lên một tầm cao mới và đạt được giải pháp cực kỳ thành công.

Tòa nhà Hành chính nằm ngay phía tây dọc theo con đường mang tính nghi lễ của Đại đền. Đây là một trong hàng loạt các công trình phụ mà du khách gặp trên đường đến đền chính. Tòa nhà là một khu nội thất khiêm tốn gồm các văn phòng, phòng họp và một không gian có chiều cao gấp đôi so với thiết kế ban đầu được sử dụng để trưng bày các báu vật trong đền thờ nên cần có mái che (hiện đang được dùng làm khu vực tiếp tân). Kikutake đề xuất một cấu trúc đơn giản, kéo dài (kích thước 10,5 x 42 mét) song song với con đường chính. Các du khách đến thăm ngôi đền sẽ trông thấy một bức tranh liên tục xuyên suốt qua sân trước với mặt tiền rộng phía đông và mặt tiền song song phía tây. Mặc dù được xây bằng bê tông, nhưng công trình vẫn đạt được nét tinh tế thường gắn liền với các khung và bình phong của kiến ​​trúc đền thờ bằng gỗ truyền thống. Vì vậy, việc quy hoạch địa điểm và không gian rất đơn giản và đảm bảo, tạo ra một khuôn khổ mà trong đó, độ xốp và độ nhẹ của bê tông có thể được khám phá với một điểm nhìn duy nhất.

Kiến ​​trúc sư Kikutake có thể hài lòng khi noi gương theo công trình mang “Phong cách Nhật Bản” của Kenzo Tange trong việc hợp lý hóa các nhịp kết cấu thành một hệ thống gồm các cột và dầm thanh mảnh, cách điệu, sau đó lấp đầy phần còn lại bằng thiết kế tự do từ các thành phần sàng lọc đúc sẵn. Nhưng ông còn có những mối quan tâm khác lớn hơn: chủ yếu là vấn đề kết nối công trình xây dựng đương đại với văn hóa đền thờ truyền thống một cách có ý nghĩa. Thần đạo từ lâu đã gắn liền với hành vi xây dựng. Các linh mục Thần đạo thực hiện các nghi lễ và nghi thức để đánh dấu sự hoàn thành của một số giai đoạn xây dựng nhất định, ngay cả trên các công trình kiến ​​trúc cao tầng đương đại. Đặc biệt, trong bối cảnh xây dựng truyền thống, việc đổ tuần tự khung bê tông thông thường, sau đó đến các lớp ốp phi cấu trúc, dường như hoàn toàn xa lạ với lịch sử của Izumo. Vì vậy, thách thức của Kikutake cũng là nguồn cảm hứng lớn nhất khi ông không chỉ tạo ra một tòa nhà đẹp mà còn nghĩ ra một quy trình xây dựng phù hợp với sự quen thuộc của du khách ở mọi giai đoạn. Điều này có nghĩa là ông đã áp dụng chiến lược thi công khô phần lớn các bộ phận xây dựng thay vì đúc hoặc hình thành chúng tại chỗ.

Khi thiết kế phương pháp xây dựng bê tông mới này, người tạo động lực lớn nhất cho sự đổi mới cấu trúc của ba thế hệ kiến ​​trúc sư Nhật Bản chính là giáo sư kỹ thuật dân dụng tại Đại học Waseda, Gengo Matsui (1920 – 1996) cũng là cộng tác viên chính của Kikutake. Matsui đã từng làm việc với Kikutake trong một số dự án và nhận thấy Izumo là một nơi lý tưởng để thử nghiệm các kỹ thuật kết cấu mới. Ngay từ đầu, kiến ​​trúc sư đã xác định dầm sườn được đỡ trên hai trụ cuối là yếu tố biểu tượng chính của kiến ​​trúc Thần đạo. Chúng ta dễ thấy điều này ở dạng đơn giản nhất là trên các “cổng torii” quen thuộc, đặc trưng trong lối vào bất kỳ ngôi đền nào và cả ở những hình thức phức tạp hơn trong việc xây dựng mái đền. Hình vẽ trừu tượng của dầm sườn dài và các phần đỡ cuối của chúng sẽ là nền tảng trong hệ thống xây dựng mới của Kikutake với sự hỗ trợ của Matsui.

Mái của Tòa nhà Hành chính bao gồm một cặp dầm bê tông song song đỡ một loạt tấm mái đúc sẵn ở giữa. Trải dài gần 40 mét mà không có trụ đỡ trung gian, các dầm bê tông sâu chỉ 2 mét (tỷ lệ chiều sâu trên nhịp 1:20) đã gây ấn tượng mạnh bởi khó có thể đạt được điều này ở kỹ thuật bê tông thông thường. Cải tiến quan trọng của Matsui để đạt được độ mảnh đáng kinh ngạc này là dự ứng lực cho các dầm bê tông bằng cách sử dụng một kỹ thuật tương đối mới lúc bấy giờ: nhúng các dây cáp gia cố dự ứng lực vào ván khuôn trước khi đổ bê tông, sau đó giải phóng lực căng này khi bê tông đã đông cứng. Ngoài ra, kỹ thuật ứng suất trước tạo ra độ cong hướng lên trong dầm giúp giảm lực căng ở phần dưới. Mặc dù ít được nhận thấy hơn ở bên trong tòa nhà, nhưng ở bên ngoài, các dầm sườn lại là một đặc điểm mang tính biểu tượng bởi sự khớp nối cẩn thận của giá đỡ dầm với các điểm cuối (bao gồm cả các chốt biểu thị vị trí của các khớp cắm ứng suất ở các đầu dầm).

Hai tháp cầu thang được đặt ở hai đầu trục bắc – nam kéo dài của tòa nhà là trụ đỡ duy nhất cho kết cấu mái và cũng chịu trách nhiệm cho một nửa tải trọng của mặt tiền phía đông và phía tây cũng như toàn bộ tải trọng ngang theo chiều dọc. Mặc dù không có cửa sổ và có cấu trúc phụ thuộc vào tính liên tục của các bức tường cắt, các tòa tháp được khớp nối không phải dưới dạng nguyên khối mà dưới dạng khung mô-men cột và dầm với các tấm trang trí đúc sẵn. Do sự tập trung tải trọng kết cấu nặng vào hai điểm tương đối xa nhau, Matsui đã chỉ định phần móng lớn bên dưới mỗi tháp cầu thang. Ngược lại, do điều kiện đất kém, mỗi móng lại cần có móng chìm sâu để chống lại độ lún không đồng đều. Mặc dù không thể nhìn thấy được sau khi lấp đất lên, nhưng điều này đã làm tăng thêm đáng kể thời gian và chi phí xây dựng.

Độc lập với khung kết cấu chính, móng nông và tấm nền cho tầng chính được xây dựng bằng bê tông tại chỗ thông thường. Tương tự như vậy, sàn tầng hai và các cột, dầm và tường chịu lực được đổ theo quy ước, đặc biệt độ mảnh của khớp nối cũng được làm cẩn thận nên chúng có tính tự chủ khỏi cấu trúc mái lớn.

Một loạt các sườn bê tông đúc sẵn, cách nhau khoảng 2,5 mét, được lắp đặt theo đường chéo dọc theo mặt tiền phía đông và phía tây (với một số điểm gián đoạn ở lối vào); mỗi đường gân nghiêng vào trong từ chân dầm đất của chúng dựa vào các dầm sườn có khoảng cách gần nhau hơn nhằm tạo ra một không gian nội thất “khung chữ A” được sửa đổi. Tuy nhiên, không giống như cấu trúc khung chữ A điển hình, các dầm sườn vẫn là cấu trúc chính. Chúng đỡ các sườn chéo thay vì được đỡ bởi các sườn. Đây là điểm khác biệt quan trọng để hiểu làm thế nào Kikutake có thể tạo ra một bức tường bê tông trong suốt như vậy. Các sườn bê tông đúc sẵn được thiết kế và tạo hình tùy chỉnh để hàn gắn vào các tấm được đặt đều đặn dọc theo dầm sườn, cũng như để gắn các lớp mái bê tông tiếp theo. Tất cả các phụ kiện hàn như vậy đều được bịt kín bằng vữa và keo silicon để ngăn các mối nối tiếp xúc với nước và độ ẩm. Tại điểm gắn các gân vào dầm sườn, một bộ thứ cấp gồm các tấm bê tông đúc sẵn và dầm đúc hẫng được nối thành cụm, tạo ra một hệ dầm chìa tinh tế để che mặt tiền phía đông và phía tây.

Các cửa chớp thanh mảnh bằng bê tông đúc sẵn nằm ngang cùng với các dải kính được chèn tinh tế vào giữa chúng là những khía cạnh ấn tượng nhất của Tòa nhà Hành chính trong Đền thờ Izumo. Các cửa chớp liên tục được phân cấp theo kích thước từ dưới lên trên nhằm tạo nhiều ánh sáng chiếu vào phía trên hơn. Mặc dù độ sâu kết cấu ở mức tối thiểu nhưng không có cửa chớp nào có vẻ bị võng trên nhịp do độ cong đã được hiệu chỉnh chuẩn xác. Mỗi bộ phận đều được tạo hình và hoàn thiện chính xác dựa theo cách làm của nghề mộc truyền thống. Cuối cùng, khoảng trống giữa các bức tường ở cuối tháp cầu thang với mặt tiền phía đông và phía tây được lắp kính, hoàn thiện phần bao bọc tòa nhà trong khi vẫn duy trì sự khớp nối của các bộ phận kết cấu độc lập.

Tòa nhà Hành chính là một trong những công trình trang nhã và gắn kết nhất của Kikutake, mặc dù rõ ràng công trình này tách biệt khỏi mối quan tâm cốt lõi về việc dự đoán những thay đổi và chuyển hóa trong kiến trúc đô thị của ông. Tuy nhiên, ngay cả ở một nơi được coi là vượt thời gian như Izumo, không có công trình kiến ​​trúc nào có thể dừng đồng hồ hoặc thoát khỏi việc tiếp nhận những giá trị mới theo thời gian. Tôi đến thăm Đại đền Izumo vào tháng 4 năm 2013, tức là 50 năm sau khi kết cấu bê tông của Kikutake được hoàn thành và chưa đầy một năm sau khi kiến ​​trúc sư này qua đời. Tình cờ, chuyến viếng thăm của tôi cũng trùng với thời điểm hoàn thành dự án trùng tu kéo dài nhiều năm cho cấu trúc mái gỗ của ngôi đền chính. Những bề mặt mới được lợp ván trông rực rỡ dưới ánh nắng mùa xuân. Các phái đoàn quan chức và nhiếp ảnh gia đã tập trung xung quanh khuôn viên ngôi đền trước sự chứng kiến ​​của đông đảo du khách theo tôn giáo. Cách xa sự náo nhiệt của lễ hội hoành tráng ở Đại đền, thoạt nhìn Tòa nhà Hành chính của Kikutake có vẻ nhỏ bé và gò bó hơn so với “siêu kiến ​​trúc” mà tôi đã tưởng tượng, đem lại cảm giác khiêm tốn và gần như là một phần của bức tranh. Khung cảnh quen thuộc của mặt tiền phía đông dài 62 mét đã bị cắt đứt bởi sự bổ sung gần đây của một công trình kiến ​​trúc mới bằng gỗ nằm tiếp giáp với phía bắc của Tòa nhà Hành chính.

Tòa nhà Hành chính của Đại đền Izumo năm 2014. Ảnh: Mark Mulligan

Mặc dù tòa nhà nhìn chung có vẻ được bảo trì tốt nhưng lớp gỉ và nấm mốc bám vào các nếp gấp của bê tông tạo ra vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp với cảnh quan cả khu đền, đồng thời, đây là minh chứng thời gian của tòa nhà. Với các tòa nhà giữa thế kỷ trước, nội thất đã bị thay đổi đáng kể. Những bức tường mờ đục và đồ nội thất âm tường mới ở cả hai đầu của không gian chính có chiều cao gấp đôi so với bản thiết kế đã làm ảnh hưởng đến tính minh bạch mà Kikutake muốn truyền đạt, chưa kể đến tính dễ đọc của cấu trúc nhịp dài ấn tượng của ông. Tuy nhiên, hiệu ứng ánh sáng tinh tế được tạo ra bởi các cửa chớp bê tông đúc sẵn dọc theo mặt tiền phía đông và phía tây vẫn được duy trì đẹp mắt, cũng như một số chi tiết thủ công (bậc thang, tay nắm cửa) vẫn tạo ra cảm giác trang nhã.

Khách sạn Tōkōen

Sự sáng tạo trong quá trình hợp tác của Kikutake và Matsui đã tạo ra kiệt tác thứ hai tại Khách sạn Tōkōen vào năm 1964. Mặc dù được khởi xướng cùng thời điểm với Tòa nhà Hành chính ở Izumo, nhưng sơ đồ cấu trúc của khách sạn lại phức tạp và giàu trí tưởng tượng hơn, với quy mô lớn hơn cùng các công năng đa dạng hơn đã tạo ra nhiều cách đọc cho bản thiết kế. Kikutake mong muốn hiểu Tōkōen như một nguyên mẫu kiến ​​trúc mà các nguyên tắc có thể được lấy ra và nhân rộng ở nơi khác. Theo quan điểm của ông, các khách sạn nghỉ dưỡng và cơ sở giải trí không phải là những nơi phù phiếm bởi chúng kết nối cư dân thành phố với môi trường tự nhiên. Vì vậy, chúng là một phần không thể thiếu trong các kế hoạch lớn hơn của ông nhằm đô thị hóa Nhật Bản.

Khách sạn Tōkōen năm 1964. Ảnh: Osamu Murai

Khách sạn Tōkōen nằm gần bờ biển của tỉnh Tottori, cách Izumo khoảng 75 km về phía đông, tại thị trấn nghỉ dưỡng suối nước nóng Yonago. Nơi đây có tầm nhìn tuyệt đẹp và không khí biển trong lành. Khách sạn Tōkōen mở cửa vào năm 1952. Và vào thời điểm Kikutake được giao nhiệm vụ thiết kế khu vực sẽ trở thành cánh chính mới, thay thế lối vào ban đầu, địa điểm này đã có các phòng nghỉ và phòng tắm chung do Isao Shibaoka thiết kế và một khu vườn tản bộ do Masayuki Nagare thiết kế. Ngay từ đầu, Kikutake nhận thấy rằng công trình này sẽ là một phần của quần thể lớn hơn và kết cấu tổng thể sẽ tiếp tục thay đổi để đáp ứng nhu cầu của chủ sở hữu và nhóm khách hàng của họ trong tương lai. Kiến ​​trúc sư đã bắt đầu thiết kế một cấu trúc tám tầng vững chắc có thể linh hoạt đáp ứng các nhu cầu bổ sung và cải tạo trong tương lai.

Kiến trúc sư đã bố trí cánh chính mới nằm trên trục bắc – nam, hướng tầm nhìn của sảnh chính và phòng khách về phía đông, đối diện khu vườn và nhà tắm của Tōkōen, thay vì hướng về phía bắc ra bờ biển. Mở rộng hơn ý tưởng về không gian nội thất linh hoạt, Kikutake nhận thấy sự hiện diện của các yếu tố cấu trúc thông thường trong phòng khách không còn phù hợp với cảnh quan xung quanh. Vậy nên, cấu trúc khung bê tông chính của khách sạn đã bị đẩy ra bên ngoài như cách ông đã làm tại Sky House và ở các quy mô nhỏ hơn khác. Tất cả các lực dọc được tập trung thành sáu “cột lớn” (sau này được chia thành các nhóm cột), cách nhau 12 mét theo chiều dọc và cách nhau 10,8 mét theo chiều sâu của tòa nhà. Để tăng thêm cảm giác lơ lửng trong một khu vực cấu trúc tự do, kiến ​​trúc sư đã đề xuất treo hai tầng trên cùng của phòng khách bằng một cặp dầm đúc hẫng (có thể nhìn thấy ở bên ngoài nhưng không thể nhìn thấy từ bên trong), sử dụng các thanh thép cường độ cao. Việc phân phối công năng và giải pháp kỹ thuật sáng tạo của khách sạn đều tuân theo những khái niệm không gian này.

Không gian được chia thành bốn khu vực chính: sảnh chính và khu vực lễ tân (tầng một và tầng hai); phòng khách theo phong cách chiếu tatami của cả phương Tây và Nhật Bản (tầng ba, năm và sáu); phòng tiệc (căn áp mái ở tầng 8); và không gian dịch vụ, bao gồm các phòng lưu thông, lưu trữ và cơ khí được phân bổ khắp nơi. Một sân hiên ngoài trời ở tầng 4 và các phòng kho kín được bố trí toàn bộ trên tầng 7 là điểm đặc biệt thể hiện rõ khái niệm cấu trúc không gian tổng thể. Cả hai đều là điều kiện cần thiết để khớp nối cấu trúc lơ lửng của các phòng ở tầng thứ năm và thứ sáu; tầng thứ bảy được bao bọc bởi các dầm kết cấu khổng lồ treo tầng thứ năm và thứ sáu, và sự xuyên suốt theo hướng đông – tây của tầng thứ tư thể hiện sự thiếu chiều sâu trong việc hỗ trợ cấu trúc thông thường bên dưới.

Mặt tiền sân vườn (trên), mặt tiền lối vào (giữa), sảnh (dưới). Ảnh: Mark Mulligan

Để đáp lại ý tưởng đầy tham vọng của Kikutake, Matsui đã đề xuất nhiều cải tiến khác nhau. Nhằm tăng cường khả năng chống địa chấn, cấu trúc tổng thể sẽ được thiết kế dưới dạng khung bê tông cốt thép, nghĩa là các cột và dầm sẽ được dựng lên trước tiên dưới dạng khung kết cấu thép, sau đó được bọc trong bê tông. Lúc đó, kỹ thuật này tương đối mới ở Nhật Bản nhưng hiện nay đã phổ biến hơn, cho phép lõi thép chịu được ứng suất uốn và kéo cấp tính, trong khi bê tông xung quanh không chỉ hỗ trợ thêm về lực nén mà còn có khả năng chống cháy cho thép.

Một cải tiến quan trọng trong phần đầu tiên của Kikutake là chia từng “cột lớn” thành một cột chính và ba cột giằng ngắn hơn, mỏng hơn. Matsui lấy ví dụ về một biểu tượng nổi tiếng của kiến ​​trúc Thần đạo làm minh chứng, đó là cổng torii của Đền Itsukushima. Giống như các trụ chính của cổng để chống lại thủy triều dâng lên và rút xuống từ đại dương đã được bổ sung thêm các trụ và dầm giằng bên dưới, Matsui đề xuất rằng một cụm cột phụ và dầm ngang ở các tầng dưới của Tōkōen sẽ giúp phân phối tải trọng địa chấn trên một chân đế rộng trong khi vẫn cho phép các cột bảy tầng chính có độ mảnh mai. Thiết kế cuối cùng của Kikutake cho nhóm các cột tạo nên sự cộng hưởng tuyệt vời với kiến ​​trúc bằng gỗ. Các dầm ngang nối các cột được đặt so le trên cao giống như khi được lắp ráp từ các thanh gỗ có khía, lồng vào nhau thay vì đổ vào nhau như một khung bê tông và trong hầu hết các trường hợp, dầm giằng không được sử dụng để đỡ các tấm bê tông ở trên. Ván khuôn bê tông đã được xem xét tỉ mỉ khi sử dụng các tấm gỗ tuyết tùng để in vân gỗ vĩnh viễn lên bề mặt bê tông, tạo nét tinh xảo cho tổng thể. Ở mặt tiền lối vào, ba tầng dưới nằm lùi vào so với nhóm các cột để chúng thực sự được coi là yếu tố điêu khắc độc lập. Trên thực tế, trong suốt quá trình thiết kế, Kikutake đã hết sức cẩn thận để khớp các bức tường bao quanh của mỗi tầng độc lập với khung kết cấu, có thể chìm vào hoặc nhô ra ngoài khung.

Phần thách thức nhất của thiết kế kết cấu liên quan đến các tầng treo phía trên rất quan trọng đối với chủ đề của dự án. Trong một dự án nhỏ hơn trước đó, Kikutake và Matsui đã thử nghiệm công nghệ sàn nâng dựa trên hệ thống treo, nhưng Tōkōen đã đưa dự án này lên một quy mô mới và táo bạo hơn. Theo thiết kế của Matsui cho kết cấu bê tông cốt thép, mỗi dầm tầng bảy khổng lồ chứa một giàn thép cao nguyên tầng, với dầm đúc hẫng cao hơn 6,2 mét so với trụ đỡ cuối cùng và chịu trách nhiệm treo các tấm sàn tầng năm và tầng sáu. Trước khi bọc các giàn này bằng bê tông, kết cấu treo bằng thép được neo vào các dây giằng phía dưới của chúng. Mỗi bộ phận kéo bao gồm hai thanh thép cách nhau bốn mét dọc theo chiều dài dầm, do đó chia nhịp chính dài 12 mét thành ba nhịp nhỏ hơn. Các thanh kéo cuối cùng được bọc bên trong đồ nội thất và do đó khách không thể phát hiện ra đó là “cấu trúc”. Để đỡ sàn giữa các giá đỡ chịu kéo này, dầm chữ I bằng thép nông được gắn vào mỗi tấm sàn; và để giảm thêm độ sâu kết cấu cần thiết ở giữa nhịp, mỗi dầm đúc hẫng dạng tấm treo cách đường kết cấu chính 2,1 mét. Đối với các phòng ở góc, có một thanh đúc hẫng đôi và độ trong suốt của chúng thể hiện sự nhẹ nhàng mà Kikutake tìm kiếm. Thiết kế của Matsui cho phép các cạnh của tấm sàn thon gọn chỉ còn 120 mm, phù hợp với mong muốn mang lại cảm giác nhẹ nhàng. Để đảm bảo độ chính xác và độ thẳng của kết cấu cuối cùng, trong quá trình thi công, cần phải tạo ứng suất trước cho các bộ phận chịu kéo bằng kích thủy lực cho đến khi bê tông đạt cường độ cuối cùng và có thể tháo bỏ các giá đỡ tạm thời. Những vách kính cao ở các phòng khách trên tầng 5 và tầng 6 hoàn thiện ảo giác về một cấu trúc nổi.

Trong các phần khác của thiết kế, Kikutake đã thử nghiệm sự táo bạo về cấu trúc và không gian tương tự: “giàn cầu thang” thanh tao nhô ra từ mặt tiền sân vườn là một ví dụ điển hình về bê tông được chế tác tinh xảo với kích thước tối thiểu. Màng thép và màng căng của mái penthouse đại diện cho một phiên bản nhẹ của cấu trúc vỏ bê tông paraboloid hyperbol trên Sky House của chính Kikutake. Đối với nội thất khách sạn, tài năng chi tiết của đội ngũ kiến ​​trúc sư (bao gồm cả thực tập sinh trẻ tuổi, Toyô  Itō) được bổ sung bởi tác phẩm nghệ thuật và thiết kế đồ họa chuyên nghiệp của Ryōkichi Mukai. Bất chấp mục đích nghiêm túc khi Kikutake giải thích về các dự án ban đầu của mình, thật dễ dàng để nghĩ rằng kiến ​​trúc sư này xem dự án Tōkōen của mình giống như một sân chơi thiết kế, nơi mà anh và nhóm của mình có thể tự do thử nghiệm.

Như trường hợp của Izumo, những bức ảnh công khai về khách sạn và kiến ​​thức về hệ thống kết cấu sáng tạo đã tạo ra ảo tưởng rằng Tōkōen là một tòa nhà lớn hơn nhiều so với vẻ ngoài. Cánh chính chỉ chứa ba mươi phòng khách và chiều cao giữa các tầng khoảng ba mét hoặc ít hơn ở các tầng trên, ngoại trừ sân hiên tầng bốn, nơi cần độ cao lớn hơn để có thể nhìn rõ. Quy mô ấn tượng của các nhóm cột cao bốn tầng, lộ ra ở mặt tiền lối vào phía Tây, được trung hòa bằng việc bổ sung các cấu trúc mái che độc lập nhỏ hơn ở lối vào, tương tự kết cấu của dầm bê tông từ ván gỗ tuyết tùng. Cấu tạo của sân hiên ở tầng 4 đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện kết cấu treo táo bạo ở các tầng phía trên; một cây cầu trên cao được bao bọc bằng kính dẫn lối đến tầng 4 của khu nhà phụ.

Khách sạn Tōkōen năm 2014. Ảnh: Mark Mulligan

Trong khi phần cấu trúc đối xứng của ông đặt các cột ở trung tâm của cả mặt tiền phía đông và phía tây, Kikutake tạo ra một chuỗi không gian năng động ở tầng trệt bằng cách chuyển lối vào về phía bắc và đặt cầu thang và thang máy ở phía nam của mặt tiền tương ứng. Sảnh bằng kính có chiều cao gấp đôi được đẩy ra phía khu vườn, kết hợp nhóm cột trung tâm của mặt tiền phía đông như một nét điêu khắc. Tính liên tục của kết cấu trần thấp được ốp bằng gỗ và thạch cao ở trong tòa nhà cùng sự hiện diện của một nhóm cột siêu cấu trúc, tất cả tạo nên sự tương phản về quy mô cũng như khả năng phối hợp của một số hệ thống riêng biệt, đạt hiệu quả trong việc định hình trải nghiệm của du khách về khách sạn.

Có thể dự đoán rằng, sàn phòng khách đã bị thay đổi trong nửa thế kỷ qua, nhưng phần lớn chúng vẫn đúng với tầm nhìn của kiến ​​trúc sư về tính nhẹ nhàng của nội thất được lấy cảm hứng từ “ryokan” (nhà trọ truyền thống được xây dựng bằng gỗ ở Nhật Bản). Hành lang trên các tầng này không có cửa sổ và được chiếu sáng bằng những chiếc đèn lồng giấy đặt dọc sàn. Đây là khung cảnh quán trọ nông thôn điển hình, có lẽ nhằm mục đích tăng thêm sự ngạc nhiên của khách khi bước vào và khám phá toàn cảnh khu vực này. Việc Kikutake cấm sử dụng cấu trúc tạo hình mạnh mẽ trong các phòng thực sự rất hiệu quả, vì thật đáng ngạc nhiên khi một kiến ​​trúc bằng gỗ nhẹ lại có thể có được tầm nhìn từ trên cao như thế này.

Ngành du lịch nội địa Nhật Bản gặp khó khăn khi thế hệ trẻ ngày càng thích khám phá du lịch quốc tế bởi giá cả phải chăng. Những nơi xa xôi như Yonago không còn thu hút đông đảo người dân thành phố ngay cả cuối tuần vì các khu nghỉ dưỡng suối nước nóng ở vùng nông thôn khác đã có thể đến được bằng tàu cao tốc mới và các tuyến đường cao tốc xuyên qua vùng nội địa miền núi của Nhật Bản. Bất chấp những nỗ lực không ngừng nhằm bảo tồn và quảng bá cho Tōkōen thì khách sạn vẫn chưa hoàn toàn quản lý được việc bảo trì cần thiết để bảo quản cấu trúc bê tông bên ngoài khỏi vấn đề ăn mòn của không khí biển. Các lớp bê tông bị bong tróc, các thanh cốt thép lộ ra ngoài và rỉ sét xuất hiện khắp nơi, đặc biệt là trên trần của sân hiên tầng 4 (tức là tấm sàn treo của tầng 5). Nhiều năm trước, khi kính thay thế được lắp đặt trên tầng năm và tầng sáu, các cạnh của tấm bê tông mảnh đã được bọc trong các tấm nhôm để bảo vệ khỏi bị hư hỏng thêm nhưng gây thất vọng về mặt thẩm mỹ. Giải pháp tạm thời hiện nay để sửa chữa bê tông bị hư hỏng là vá chúng và lắp đặt các tấm trần mới để che phủ và bảo vệ khi cần thiết. Chắc chắn đến một lúc nào đó, sẽ cần phải có một chiến lược toàn diện hơn để bảo tồn hoặc thay thế.

Thách thức trong cách tiếp cận và xây dựng công trình có độ bền cao

Vị trí của Tōkōen trong lịch sử kiến ​​trúc hiện đại hiển nhiên phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc táo bạo của tòa nhà: kết cấu treo hai tầng nhẹ từ một khung bê tông tiếp xúc với các yếu tố khác. Tuy nhiên, theo thời gian, chính sự tự phụ này dường như đã khiến tòa nhà rơi vào tình trạng bấp bênh. Khách sạn chưa bao giờ phải tuyên bố là nguy hiểm về mặt cấu trúc, nhưng tình trạng hiện tại của công trình lại đặt ra câu hỏi về khả năng có thể bảo trì đầy đủ được. Người ta có thể kết luận rằng tham vọng của Kikutake nhằm tạo ra những công trình kiến ​​trúc vững chắc, lâu dài có khả năng thích ứng với những thay đổi trong tương lai lại không nhận được sự ủng hộ nhiệt tình. Nếu không có trận động đất tàn khốc ở Awaji-Kobe (1995) và Tōhoku (2011) đã chứng tỏ tính dễ bị tổn thương của nhiều công trình thời hậu chiến được xây dựng trước khi các quy tắc cấu trúc của Nhật Bản được sửa đổi vào năm 1970, thì giờ đây, quốc gia này vẫn còn hoài nghi về công trình được tạo ra bởi các kiến ​​trúc sư mang phong cách hiện đại. Rất nhiều kiệt tác của chủ nghĩa hiện đại Nhật Bản những năm 1950 và 1960 đã bị phá bỏ hoặc có nguy cơ bị phá hủy. Chi phí để duy trì diện mạo của các tòa nhà bê tông cũ trong khi nâng cấp hiệu suất kết cấu của chúng thường được đánh giá là quá cao, cũng có nghĩa là lợi ích xã hội của việc bảo tồn kiến ​​trúc ở Nhật Bản không được đánh giá cao như ở các nước khác. Dù Kikutake có ý định gì khi thiết kế Tōkōen như một nguyên mẫu cho các hệ thống tòa nhà mở, có khả năng thích ứng về mặt chuyển hóa thì tòa nhà này hay tất cả các tòa nhà trong thời đại đó hiện giờ đều phải đối mặt với cùng một vấn đề là tồn tại để mang lại sự tận hưởng cho thế hệ tương lai.

Tuy nhiên, ở một mức độ sâu hơn, việc Kikutake theo đuổi tính linh hoạt trong tương lai không làm suy giảm mối quan tâm của ông đối với thử nghiệm kết cấu. Việc theo đuổi đổi mới công nghệ là một phần không thể thiếu trong tầm nhìn của ông về xã hội tương lai, và không thể bị loại bỏ khỏi một kiến ​​trúc có mục đích định hình tương lai. Ý tưởng là an ninh cá nhân đòi hỏi cuộc sống của một người được bao quanh bởi những bức tường bê tông cứng nhắc, gợi nhớ đến sự dễ bị tổn thương của chính họ trước sự hiện diện trực quan của các yếu tố cấu trúc. Kịch bản này không phù hợp với khát vọng của Kikutake về việc tìm ra con đường giải phóng những con người hiện đại. Trong các tác phẩm như Sky House, Izumo và Tōkōen, việc loại bỏ các yếu tố cấu trúc thông thường khỏi môi trường sống hàng ngày đã là mục tiêu chính, góp phần minh họa cho câu chuyện về Chuyển hóa luận.

Một trong những di sản mang giá trị lâu dài của Kikutake là truyền cảm hứng cho các thế hệ kiến ​​trúc sư sau này tiếp tục nghiên cứu cấu trúc chuyên sâu liên quan đến nhận thức không gian của con người. Những người kế thừa nổi tiếng đã tạo ra vô số cách thể hiện kiến ​​trúc và kết cấu sáng tạo: kéo dài từ Kikutake đến Toyô Itō, Itsuko Hasegawa, Kazuyo Sejima và Ryūe Nishizawa đến Jun’ya Ishigami, Sōsuke Fujimoto và hơn thế nữa. Mặc dù về mặt khoa học vẫn cần sự hợp tác của các kỹ sư hàng đầu, nhưng những nghiên cứu này được truyền cảm hứng nhiều hơn bởi mong muốn tạo ra các loại trải nghiệm không gian cụ thể hơn là các thước đo tiến bộ có thể định lượng (nhưng một chiều) như hiệu quả và tính kinh tế. Những bài học về cách tiếp cận đổi mới công nghệ của Kikutake, cả phương pháp và thái độ của ông, vẫn được các học viên trẻ tuổi tiếp thu. Trọng tâm của cách tiếp cận này là ý tưởng nghiên cứu về kỹ thuật xây dựng là một hoạt động xứng đáng với thời gian và sự tập trung của kiến ​​trúc sư, bất kể khả năng áp dụng của nó vào bất kỳ bản tóm tắt chương trình nào có thể có trên bàn làm việc của họ. Khi kiến ​​trúc sư quan tâm sâu sắc đến một chiến lược hoặc kỹ thuật cụ thể, cơ hội kết hợp những điều này vào bản tường thuật dự án sẽ xuất hiện. Để được thử nghiệm, chiến lược kết cấu và kỹ thuật xây dựng phải được tinh chỉnh theo yêu cầu và quy mô của từng dự án; nhưng cuối cùng, việc áp dụng tối ưu kết quả ở bất kỳ cuộc nghiên cứu nào có thể diễn ra trong nhiều năm sau ở một quy mô khác và mang lại hiệu quả khác so với dự án mà chúng được thử nghiệm ban đầu.

Dưới góc độ này, người ta dễ dàng phát hiện ra trong công việc của Kikutake một điểm “không phù hợp” giữa các dự án riêng lẻ, tính đặc thù của chúng (địa điểm, chương trình, ngân sách, tiến độ) và kỹ thuật xây dựng được áp dụng. Mặc dù nhận được sự quan tâm tối đa của kiến ​​trúc sư trong việc tạo ra tiện ích và chất thơ thì các dự án xây dựng cũng được coi là cơ hội để thử nghiệm các hệ thống xây dựng mới; quy mô của họ không phải lúc nào cũng yêu cầu hoặc thậm chí phù hợp với công nghệ được sử dụng. Nhịp tự do 40 mét có cần thiết cho những yêu cầu khiêm tốn của Tòa nhà Hành chính rộng 10 mét ở Izumo hay Kikutake mong muốn tìm hiểu khả năng của dầm bê tông dự ứng lực khi ông phát triển từ vựng về các chiến lược không gian và kết cấu mang tính đổi mới? Công năng của Khách sạn Tōkōen có phải là một phương tiện lý tưởng để thể hiện những hiệu ứng không gian thông qua kết cấu sàn treo từ những thanh thép mỏng hay đây chỉ là một cơ hội kịp thời? Tôi đưa ra những nghi ngờ này không phải để theo đuổi các câu hỏi lặp lại mà là để tìm hiểu làm thế nào Kikutake có thể phát triển một phương pháp kiến ​​trúc dựa trên nghiên cứu mà (hơn cả) tự hỗ trợ bằng các khoản hoa hồng xây dựng thực tế đồng thời phát triển song song khả năng làm việc ở quy mô mới và đầy thách thức trong tương lai.

Tôi thấy rõ ràng rằng Kikutake không bị thu hút bởi ý tưởng về sự hoàn chỉnh trong kiến ​​trúc; ông có cả hứng thú và thẩm mỹ đối với những hình thức kiến ​​trúc chưa hoàn thiện, không có kết thúc mở và thậm chí không ổn định. Theo nghĩa này, ông đã giới thiệu cho kiến ​​trúc hiện đại Nhật Bản một cảm giác mới, khác với cách tiếp cận bố cục có kiểm soát của thế hệ trước. Tầm nhìn đô thị theo tư tưởng Chuyển hóa luận do Kikutake đề xuất luôn nhấn mạnh bản chất chưa hoàn thiện của thành phố như một công trình không ngừng phát triển. Nhưng tính thẩm mỹ này cũng thấm nhuần vào công trình được xây dựng của ông, ngay cả những dự án thoạt nhìn có vẻ cân bằng về mặt cổ điển và chắt lọc các yếu tố thiết yếu. Có lẽ trước sự kinh hoàng của những người nhìn thấy Sky House nguyên bản là một công trình hoàn hảo, kiến ​​trúc sư đã không ngại điều chỉnh ngôi nhà của mình theo thời gian, theo lời kể của chính ông về quá trình chuyển hóa. Qua nhiều năm, ông đã thêm và bớt các yếu tố, đi xa đến mức bao bọc mặt phẳng mặt đất mà ngôi nhà của ông nổi tiếng lơ lửng trên đó như một biểu tượng của sự biệt lập hiện đại.

Ưu tiên thể hiện các bộ phận tự do có tác động đến sự gắn kết tổng thể cũng được thấy trong các tác phẩm khác. Trong nhiều trường hợp đây là điều kiện cần thiết cho thử nghiệm kỹ thuật. Trước đó tôi đã mô tả khả năng của Kikutake trong việc thiết kế Tōkōen có một số thí nghiệm về cấu trúc dường như không liên quan. Trong báo cáo của mình về quá trình phát triển thiết kế của khách sạn, kiến ​​trúc sư dự án Shōkan Endō viết rằng mái vỏ sò của căn hộ áp mái chỉ được thêm vào như một sự sàng lọc sau khi dự án đã được đưa ra đấu thầu. Ngay cả trong hệ thống thiết kế tinh xảo của Tòa nhà Hành chính ở Đại đền Izumo, Kikutake không thể cưỡng lại việc đưa vào một yếu tố xa lạ để làm mất tính ổn định và sự rõ ràng của tổng thể trong bố cục của mình: lớp vỏ bê tông hình parabol hyperbol bao quanh một đoạn đường dốc bên trong nhô ra từ mặt tiền phía tây. Không liên quan gì đến sơ đồ cấu trúc của tòa nhà, dạng tự do này đã bổ sung vào dự án một tập hợp các kỹ thuật xây dựng mới để làm chủ và có khả năng áp dụng cho các dự án sau này. Thái độ này giúp kiến ​​​​trúc sư giảm bớt kỳ vọng rằng mọi công trình đều cần phải là một kiệt tác; thay vào đó tất cả đều là một phần của quỹ đạo dài hơn.

Phân tích này không có nghĩa là Kikutake không ngừng theo đuổi các công nghệ kiến ​​trúc mới nhất. Các nhóm nghiên cứu mà ông đã thực hiện trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình hầu như chỉ tập trung vào cấu hình kết cấu nhằm tạo ra không gian cấu trúc tự do và cho phép xây dựng trên những địa điểm được coi là không thể xây dựng được. Nhiều thí nghiệm trong những năm đầu của ông đã tìm được đường vào các dự án sau này ở quy mô lớn hơn, mặc dù ngày càng có nhiều cơ chế thực tế bị ẩn khỏi tầm nhìn bên dưới các lớp ốp (cấu trúc lộ ra ngoài không được ưa chuộng trong các công trình xây dựng gần đây vì lý do bảo trì và hiệu suất nhiệt).

Bất chấp lý thuyết của Nhà chuyển hóa luận về sự lỗi thời và đổi mới, người ta vẫn hy vọng rằng những tác phẩm được xây dựng ban đầu của Kiyonori Kikutake sẽ được đánh giá cao và duy trì trong nhiều năm tới. Những tác phẩm hay nhất trong số đó chứa đựng những trải nghiệm phong phú mà chỉ có thể đích thân đánh giá đầy đủ. Các tòa nhà được chế tạo cẩn thận là minh chứng không chỉ cho trí tưởng tượng và sự cống hiến của kiến ​​trúc sư trong việc theo đuổi các ý tưởng mà còn cho sự nghiêm túc mà đội ngũ xây dựng, nhà cung cấp vật liệu và thợ thủ công tiếp cận công việc của họ. Tuy nhiên, người ta tự hỏi liệu bản thân Kikutake có tham gia vào nỗ lực đó hay không, hay liệu anh ấy chỉ nhìn thấy cơ hội mới trong việc giải phóng mặt bằng cho một địa điểm xây dựng trong tương lai.


Nguồn
Places Journal

Biên tập
Vũ Toàn Thắng