Kiến trúc dân tộc thiểu số Việt Nam

Việt Nam là một nước nhiều dân tộc. Ngoài người Kinh ra, còn có gần sáu mươi dân tộc cùng nhau sinh sống, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chung. Người Kinh ở miền xuôi, còn dân tộc thiểu số phần lớn ở miền núi. Có tộc người hình thành tại chỗ từ thời nguyên thủy; còn có những dân tộc thiên di đến muộn hơn và đã có đặc điểm văn hóa của mình. Có dân tộc đã định cư lâu đời ở những nơi đường giao thông thuận tiện dễ tiếp xúc với nền văn minh lớn, nhưng cũng có dân tộc quen sống trên núi cao, ít giao thiệp với bên ngoài, nên vẫn giữ phong tục tập quản từ ngàn xưa ít thay đổi.

Một số dân tộc cùng nguồn gốc, nhưng thiên di đến, đoàn tới sớm, đoàn tới muộn và sống ở những vùng riêng biệt, rồi do ảnh hưởng của hoàn cảnh, trở thành những bộ tộc khác biệt. Vài dân tộc thiểu số ở Việt Nam lại thuộc dân tộc cơ bản của nước lân cận. Vì địa bàn cư trú khác nhau, cách sinh hoạt khác nhau nên nghệ thuật kiến trúc phản ánh đời sống của các dân tộc Việt Nam rất phong phú.

Miền Bắc nước ta, trước công nguyên đã là nơi cư trú của hai liên minh bộ lạc lớn là Âu Việt (tổ tiên dân tộc Tày, Nùng, Thái…) ở vùng thượng du Tây Bắc, và Lạc Việt (tổ tiên dân tộc Kinh, Mường) ở miền trung du, trung tâm là vùng Vĩnh Phú xưa (nay là Vĩnh Phúc – Phú Thọ). Hai liên minh được thống nhất thành nước Âu Lạc vùng dưới quyền lãnh đạo của An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Về sau, dân tộc Hoa, Mèo (Hmong) ở Hoa Nam, di cư vào ở núi miền Bắc nước ta. Đó là thành phần cơ bản các dân tộc miền Bắc, ó thể thêm vào số dân tộc này, người Xá từ Trường Sơn đến vùng Tây Bắc rất lâu đời và sau đồng hóa với các dân tộc khác của địa phương.

Từ những thành phần cơ bản ấy lại chia ra nhiều nhóm khác nhau, ví dụ dân tộc Mèo thì có Mèo Trắng, Mèo Đen, Mèo Đỏ, Mèo Hoa, Mèo Hán… dân tộc Dao có Dao Đỏ, Dao Ngang, Đại Bản, Quần Chẹt, Sơn Đầu, Lê Gang, Thanh Phán, Thanh Y, Quần Trắng, Dao Tiền, Tiều Bản, Làn Tẻn, v. v… ; dân tộc nói tiếng Tày – Thái có Thái, Nùng, Cao Lan, Giấy, Da Di, Bố y, Pu Piéo, Lu, v.v… ; dân tộc nói tiếng Hán cũng lắm nhóm. Thực sự nhiều nhóm chỉ khác nhau về một vài chi tiết hay màu sắc trang phục mà thôi.

Đồng bào Mường cùng một gốc với người Kinh, ở rải rác các tỉnh Sơn La, Vĩnh-Phú, Hà Tây xưa, Ninh Bình, đông nhất là Hòa Bình và miền thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, có những nhóm như Nguồn Sách, Ban Lai, Li Hà, Rục, Mã Liêng, v.v…

Quá về phía Nam thì các dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Môn-Khơ-me, Mã Lai, Đê-li-nê-xia, hay Anh-đô-nê-diêng đã cư trú lâu đời ở Tây Nguyên, Trung Bộ và Nam Bộ như các dân tộc Chàm (Chăm) và Gia Rai, Ê Đê, Xơ Đăng, Ba Na, Hrê, Khơ-me Nam Bộ, Mạ, Mnông, Xtiêng v.v…

Tuy ngôn ngữ khác biệt và cách sinh sống không giống nhau, đồng bào thiểu số Việt Nam chia ra nhiều nhóm trình độ không đồng đều, nhưng cũng có điểm tương đồng như quan niệm về kiến trúc nhà ở của nhiều dân tộc miền núi và khả năng về nghệ thuật trang trí của đồng bào thượng du Bắc Bộ. Chưa đủ điều kiện đề cập đến từng nhóm dân tộc ít người, bài viết này chỉ nêu ra những đặc điểm về kiến trúc của một số dân tộc mà thôi.

KIẾN TRÚC DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN BẮC VIỆT NAM

Không phải ngẫu nhiên mà hình nhà trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là nhà sàn. Trong sách “Lĩnh Nam trích quái” có nói tổ tiên ta “… gác gỗ làm nhà (nhà sàn) đề tránh hồ lang làm hại…”. Truyền thống kiến trúc này hiện nay còn phổ biến ở vùng đồng bào miền núi Việt Nam ta. Ngôi đình của người Kinh miền Bắc, loại kiến trúc cổ truyền có tính chất dân tộc nhất là sự phát triển kiểu nhà sàn, kiến trúc bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, kiến trúc sư giỏi là người biết xây dựng như thế nào cho hợp với phong thổ, địa thế và khả năng về vật liệu và có tiện nghi đề con người sống và làm việc trong nhà được thoải mái.

Nước ta ở vùng nhiệt đới mưa dầm, nóng bức, đồng bào miền núi phần nhiều sống về nương rẫy và chăn nuôi gia súc. Để tiện việc sinh sống làm ăn, đồng bào thường cất nhà trên sườn núi, gần những con suối chảy, phía dưới là nương rẫy hay ruộng bậc thang, chung quanh là rừng già nhiều gỗ quý… Trong điều kiện thiên nhiên và cách sinh sống như vậy, hiện nay không có loại kiến trúc nào hợp với đồng bào miền núi hơn là sàn gỗ. Dù kích thước hay hình dáng ngôi nhà sàn của đồng bào thiểu số miền Bắc có thay đổi theo quan niệm từng địa phương, nhưng cách sử dụng khoảng không gian trong nhà của đồng bào Tày, Nùng, Thái không khác nhau lắm. Điển hình như cách bày biện của một nhà đồng bào Thái, để làm rõ khái niệm về một nhà sàn vùng thượng du miền Bắc: sàn nhà không cao lắm, độ chừng bằng tầm cao của một người lớn. Ở dưới sàn, một bên là chuồng lợn và gà, một bên là chuồng trâu bò (ngày nay, theo nếp sống mới, nhiều gia đình làm chuồng súc vật riêng, cách xa nhà ở). Sàn nhà lát bằng tre hay ván gỗ, tùy theo giàu, nghèo, là nơi người ở. Mỗi nhà đều có một đến hai chiếc thang để lên nhà.

Trước hay liền sau nhà là một cái dàn thượng là nơi để dụng cụ làm đồng, phơi phóng hay là để ngồi chơi trong buổi chiều hè. Buồng đầu tiên ở cửa vào là buồng khách, phía ngoài có một dãy hành lang đi thông qua mấy gian phòng ngủ của gia đình, dựa vào chiếc cột cái gần giường ngủ của người gia trưởng. Bàn thờ Phật, Thần nếu có, thì để ở chính giữa nhà, thường đặt trong một chiếc khám kín đáo trên bàn thờ tổ tiên. Phía đầu chái là nhà bếp, ngoài bếp cũng có sàn và thang xuống đất. Những gia đình khá giả có nhiều nhà thì làm cầu để tiện đi từ nhà này sang nhà khác khỏi phải xuống đất. Cột nhà làm bằng thân cây gỗ, sàn vách bằng tre nứa, mái lợp lá gồi, là những thứ sẵn có trên rừng. Có nơi đồng bào khá giả hơn thì mái lợp bằng ngói âm dương.

Nhà sàn của người Thái trắng ở Yên Châu, Sơn La. Ảnh: Triệu Chiến

Đồng bào Mèo, Dao ở rẻo cao thường nhà có ba gian, việc xếp đặt trong nhà có khác. Những vùng rẻo cao mùa đông giá rét mà ở trên sàn cao vách ván đơn sơ thì thật không hợp với thời tiết, cho nên tầng trên sàn cao là để ngô, lúa cho khỏi ẩm ướt, còn người thì ở tầng dưới có vách dày chắc, ấm áp. Nhiều nhà đồng bào Mèo có tường đất bao quanh và một cổng kiên cố có cửa ra vào.

Nhà người Hmong (Mèo) được trình tường đất tại Phố Cáo, Đồng Văn, Hà Giang. Ảnh: Anh Nguyên

KIẾN TRÚC TÂY NGUYÊN

Từ thời cổ, đồng bào Tây Nguyên, vì sống trên cao nguyên hay rừng sâu theo dãy Trường Sơn, không có điều kiện tiếp xúc với cái mới bên ngoài, cho nên trong nếp sống và sáng tạo nghệ thuật, trải qua thời gian lịch sử, ít có gì thay đổi. Trước năm 1945, nhiều dân tộc Tây Nguyên không định cư, đồng bào đốt rừng làm nương rẫy, ít lâu hết phần tro thì lại đi khai phá nơi khác. Có nhóm dân tộc vì tín ngưỡng, nếu trong buôn (làng) có người chết vì bệnh truyền nhiễm thì dân bỏ đi lập buôn khác ở chỗ mới. Vì vậy, đối với một số nhóm dân tộc Tây Nguyên không có vấn đề kiến thiết những gì chắc chắn lâu dài.

Ngoài những đặc điểm ấy của một số nhóm, còn phần lớn các dân tộc ở Kon Tum, Plây Cu đã định cư từ lâu trong những buôn đông vui. Ở vùng thấp như Ê Đê, Gia Rai thì làng ở tập trung, mỗi làng có từ hai ba chục đến hàng trăm nóc nhà. Ở vùng núi cao như Xê Đăng, Ba Na, Mạ, v. v… làng nhỏ hơn và thường phân ra nhiều xóm, mỗi xóm có từ mười lăm, hai mươi nhà. Ở một số vùng như Ve, Cor, Gie cả làng ở tập trung trong một nóc nhà chia thành nhiều bếp, mỗi bếp là một gia đình.

Nhà dài của người Ê đê trưng bày mẫu tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam. Nguồn: NOTES

Nhà thường của đồng bào rất đơn giản, bên ngoài cũng như bên trong không có gì đáng chú ý về mặt nghệ thuật, nhưng ở vùng Ba Na, Xê Đăng và một số làng của Gia Rai tiếp cận với Ba Na, mỗi làng có một nhà rông, như loại đình của người Kinh, là nơi tập hợp dân làng. Nhà rông cũng là phòng ngủ của trai chưa vợ hay người không có vợ. Có nơi nhà rông là phòng ngủ cho gái chưa chồng. Thời xưa nhà rông chính là nơi tập hợp lực lượng bảo vệ làng.

Nhà Rông làng Kon Pring, xã Đăk Long, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Ảnh: Triệu Chiến

Ở trung tâm buôn, kiến trúc nhà rông thật là đồ sộ khác hẳn nhà thường. Với những hàng cột to lớn, nhiều khi hai người ôm mới giáp, chống hai mái cao chót vót, vượt hẳn những nhà chung quanh. Mái nhà đan bằng mây hay bằng nứa chắc chắn, có hoa văn trang trí rực rỡ. Có những nhà rông, ở giữa nóc, người ta cắm một cây que cao như cây thu lôi của những nhà cao ở thành thị, dọc nóc nhà có trang trí bằng vòng tre. Hai đầu nóc nhà nhô ra hai khúc gỗ đẽo cong và có chạm trổ. Có khi ở đấy người ta treo những tua bằng vải hay bằng nửa với mục đích tín ngưỡng Nhà Rông của Tây Nguyên hoặc thẩm mỹ. Cái thang lên nhà rông, cũng như nhà thường, là một bộ phận quan trọng về mặt thẩm mỹ của nhà. Nó là một khúc gỗ lớn được đẽo thành bậc để bước lên nhà sàn cho dễ dàng, phía đầu trên cong lại đề móc quặp vào sàn nhà. Chính đầu thang là phần người thợ khéo chạm ra hình người hay là hình động vật như để chào đón những người khách đến nhà.

Tuy có những điểm rất đặc sắc, nói chung kiến trúc Tây Nguyên vẫn là loại nhà sàn như các dân tộc miền núi ở Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng nếu nghiên cứu qua kiến trúc đồng bào Chàm thì thấy khác hẳn, đây là một trong những đỉnh cao của kiến trúc cổ Việt Nam nhiều dân tộc.

KIẾN TRÚC CHÀM

Ở dài theo miền đồng bằng hẹp Trung Bộ nhìn ra biển Đông, nơi giao lưu các nền văn minh sớm của Á Đông, từ thời cổ, đồng bào Chàm đã chịu ảnh hưởng nền văn hóa Ấn Độ và Khơ-me. Sùng tin Ấn Độ giáo (tức là Bà La Môn giáo cải biên), Phật giáo và về sau là Hồi giáo, dân tộc Chàm tiếp thu được tinh thần của kiến trúc các tôn giáo này. Di tích đền chùa ở Mỹ Sơn, Đông Dương (Quảng Nam – Đà Nẵng), Bình Định, Nha Trang, Phan Rang, v.v., cho thấy ảnh hưởng của các nguồn tín ngưỡng đó. Tuy nhiên, văn hóa Ấn Độ, Khơ-me không làm mất hẳn đặc sắc dân tộc Chàm. Với cái vốn tiếp thu được ấy cộng với sự tiếp xúc thường xuyên cùng người Kinh tạo cho nghệ thuật kiến trúc Chàm một vẻ thực sự độc đáo.

Nhà dân tộc Chăm (Chàm) trưng bày mẫu tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam. Nguồn: NOTES

Nghệ thuật Chàm có mấy giai đoạn rõ rệt. Đầu tiên ở Võ Cảnh (Nha Trang) là giai đoạn cổ ngữ, nghệ thuật Chàm chưa phát triển đầy đủ. Khi vương quốc bành trưởng ra đóng đô ở Đồng Dương (kinh đô của người Chàm từ năm 875 đến năm 982), nghệ thuật Chàm đã đến thời trung hưng thịnh. Sau đấy, vào thế kỷ XVII, thời suy đồi, kinh đô phải thiên di về Vit-giai-đa và Pan-đu-ran-ga thì những công trình kiến trúc như tháp Pô-rô-mê ở Bình Thuận có phong cách suy sút hẳn.

Hình thức chính của kiến trúc Chàm là những ngọn tháp gọi là Ka-lâng. Nó là công trình vuông, cao đứng, bằng gạch. Hình dáng chung theo luật cân đối. Kiến trúc Chàm không dùng nguyên liệu đá như các công trình lớn của Khơ-me, mà dùng một thứ gạch nung rất cứng tốt, nhà điêu khắc có thể chạm trang trí vào tường đã xây lên.

Tháp Bánh Ít – Bình Định. Ảnh: Ma Vê đăng trong Ghé Group

Tháp Chàm cũng như đền của Khơ-me, có nhiều tầng, mỗi tầng bé dần đi lên tới đỉnh. Tầng thứ nhất trên một nền cao là tầng quan trọng hơn hết. Tường tầng này đứng thẳng lên giữa những cột ghép ở góc hay theo khung cửa lồi ra, làm thành những đường dọc thanh nhã. Hình trang trí trên đầu cột phồng ra như búp sen. Cửa vào tháp bao giờ cũng hướng về phía mặt trời mọc. Ba hướng kia có của giả. Trên mỗi cửa thật hay của giả đều có óc cửa hình thoi, trang trí bằng tượng quái vật nhô ra. Với những tầng tháp có hình trang trí ở góc và trên óc cửa, hình dáng chung của tháp giống như một quả thông khổng lồ.

Trong chi tiết trang trí kiến trúc, nghệ sĩ Chàm dùng nhiều hoa văn hình hoa lá xen kẽ với hình người hay quái vật.

Điêu khắc Chăm (Chàm) trưng bày tại cổ viện Chăm. Ảnh: Triệu Chiến

Những công trình kiến trúc quan trọng đánh dấu các giai đoạn nghệ thuật Chàm là Mỹ Sơn, Đồng Dương ở Quảng Nam-Đà Nẵng, tháp Pô-ko-long-ga-rai ở Phan Rang, tháp Pô-rô-me ở Bình Thuận và tháp Pô-na-ga ở Nha Trang. Mỹ Sơn, gần phố Hội An, là cả một khu đền đài thờ thần của đạo Bà La Môn. Người ta đếm cả thảy trên 60 di tích đền tháp chung quanh. Có ngôi đền dựa vào sườn núi bao vây như hình vòng cung. Những phần không bị thời gian và con người hủy hoại, cho ta thấy; ngoài tượng đá, một thể thức kiến trúc rất thanh nhã. Những ngôi đền đầu tiên ở Mỹ Sơn do vua Ba-dơ-ra-vác-man xây dựng vào thế kỷ VII đề thờ thần Xi-va của đạo Bà La Môn.

Không xa Mỹ Sơn, ở bên kia dãy núi là Đồng Dương, một di tích của chùa lớn thờ Phật Quan Âm. Ở Đồng Dương, thể thức đặc sắc dân tộc hơn, hoa văn trang tri lấy trong hình ảnh hoa lá của rừng núi nhiệt đới làm cho kiến trúc Chàm ở đây có một vẻ khoẻ mạnh khác thường.

Cũng trong giai đoạn này, tháp Pô-na-ga ở Nha Trang được chữa lại lần chót. Đây là một di tích giữ được nguyên vẹn hình ảnh kiến trúc Chàm thời thịnh. Những Tháp ở Phật Thệ (Bình Định) thế kỷ XI được nhân dân ở đây gọi là Tháp Vàng, Tháp Bạc, Tháp Đồng, đánh dấu thời kỳ kiến trúc Chàm còn giữ được vẻ đồ sộ, nhưng cái duyên dáng đầy nhựa sống của Mỹ Sơn không còn thấy rõ. Phải chăng vì bị hư hỏng nhiều, và những chất quý bao học bên ngoài đã bị mất từ lâu, nên chúng kém phần rực rỡ. Những tháp này thờ các vị thần Ấn Độ giáo. Tuy kiến trúc nhiều nơi đã sụp đổ nhưng tượng thần trong mấy tháp vẫn còn nguyên.

Sau giai đoạn Pô-ko-long-ga-rai thì chấm dứt nền kiến trúc lớn của dân tộc Chàm.


Tổng hợp
Anh Nguyên

Nhà người Chăm (Chàm) tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam.
Ảnh: Triệu Chiến