Phật giáo thịnh đạt dưới thời Lý. Có phẩm cấp cho các tầng quan đứng đầu là chức Quốc Sư. Các tầng quan cao cấp thường được vua và thái hậu dùng làm cố vấn. Lý Công Uẩn, vua sáng lập nhà Lý, khi còn nhỏ, sống trong chùa “nhân dân quá nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”. Xây dựng đất Phật trang nghiêm tốn kém hàng vạn nén bạc, đó là ý câu thơ “Phật thổ trang nghiêm xỉ vạn kim” của nhà thơ Nguyễn Xương trong sách Tiên Du vạn phúc tự, khi nói về chùa Phật Tích.
Còn nhiều chùa tháp khác xây to lớn như chùa Dạm, tháp Chương Sơn xây hơn một chục năm mới xong. Nhiều công trình kiến trúc tôn giáo còn lưu lại ngày nay là những di tích quý được xây dựng vào thời thịnh vượng nhất của Phật giáo và Nho giáo.
Chùa Một Cột, tức chùa Thiên Hựu dựng ở phía tây thành Thăng Long, 39 năm sau ngày ra chiếu thiên đô, vào “tháng 10, mùa đông năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất (1049), phía trước có ngọn bảo tháp, ao Bích Trì trồng hoa sen, xung quanh có hành lang, bắc cầu lượn vào”, là nơi nhà vua “hàng tháng cứ mồng một và ngày rằm, ngự giá đến văn cảnh”. Bia tháp chùa Sùng Thiện Diễn Linh (1105) còn ghi: đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một đóa hoa sen nghìn cánh xòe ra, trên hoa dựng ngôi đền màu đỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng.”
Chùa Thiên Hựu ngày nay mộc mạc, đứng đơn độc giữa hồ vuông, không còn sự hỗ trợ của kiến trúc vườn thượng uyển với hành lang và cầu lượn trang nhã soi bóng xuống hồ Bích Trì thơm ngát mùi hoa sen. Trong khung cảnh diễm lệ đó, ta thấy chùa Một Cột với cột kèo, con tiện và cả hệ thống con sơn đỡ ngôi chùa rực rỡ trong màu son đỏ thắm, màu vàng điệp ấm áp, với những hình rồng bay phượng múa thường chỉ thêu ở tấm áo bào kim tuyến lộng lẫy. Chỉ là một cái lầu vuông mỗi cạnh 4 mét, lợp bốn mái, đặt trên tám con sơn bằng gỗ trên đầu một cái cột đá, chùa Một Cột có hình khối kiến trúc rất khiêm tốn nhưng độc đáo. Ở chế độ xã hội phong kiến mà lễ giáo và tôn giáo đặt nhiều công thức cho sự thờ cúng và xây dựng, kiểu kiến trúc như chùa Một Cột chỉ có một không hai. Mặt khác, cấu trúc của chùa Một Cột đã phá vỡ công thức cổ điển của cấu tạo vì kèo Việt Nam.
Việc phá công thức ấy chỉ có thể là do quyết định của một uy quyền cao nhất là ông vua lúc bấy giờ. Theo truyền thuyết, vua Lý Thái Tông nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen đưa tay đón mình lên, cho là điềm chẳng lành, đã nghe lời Quốc sư trong triều cho xây chùa để giải mộng. Trụ duy nhất trông như một cuống sen từ dưới nước nhô lên và đỡ ngôi chùa trên những con sơn xòe ra bốn phía như những cánh hoa. Trong chùa thờ Phật Quan Âm. Kiến trúc dùng ngôn ngữ hình tượng của nghệ thuật điêu khắc, là bảo vật của người dân Việt Nam. Mặc dù kẻ thù của nhân dân Việt Nam trước khi rút khỏi thủ đô Hà Nội đã phá hủy chùa Một Cột bằng mìn nhưng Nhà nước ta đã cho xây dựng lại năm 1955.
Ở Thăng Long, chùa Chiêu Thiên (tức chùa Láng) do Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138) cho xây dựng thờ Phật và sau này lại thờ chính ông vua đã xây nhà chùa. Là nơi vua ngự giá đến tụng kinh thờ Phật nên kiến trúc chùa Láng có một quy mô lớn. Không biết thời mới sáng lập, chùa như thế nào, nhưng còn rõ rệt một bố cục hoàn toàn cận đối theo một trục giữa và mặc dầu trong các công trình riêng lẻ còn vết tích của nhiều cuộc trùng tu qua các thế kỷ, toàn bộ ngôi chùa về hình khối chủ yếu của kiến trúc còn giữ được cân đối trong bố cục không gian và trong quan hệ tương xứng của trụ, tam quan, lầu bát giác và tiền đường. Cao nhất và nổi bật từ xa, cổng vào là bốn trụ vuông mà các bộ phận cấu thành từ đế lên đến đầu trụ giống như mọi kiểu tứ trụ khác của các đền chùa Việt Nam, nhưng ở đây trụ đơn giản, mạnh mẽ vươn lên và đỡ ba mái cong bên sườn mình làm thành ba cửa giữa cao và hai bên thấp hơn. Tam quan thì cũng giống như nhiều tam quan khác của các chùa. Hai nữu tường thấp nối hai bên tứ trụ với tam quan, làm ranh giới của một sân gạch, giữa là một bệ đá vuông để dựng cột cờ.
Nối thẳng tam quan với sân chùa có lầu bát giác ở đầu một đường đi lát gạch, hai bên có nữu tường rất nhịp nhàng về tầm vóc so với tam quan lầu bát giác và cả hai cái trụ nhỏ trước sân chùa. Các cây lớn, tuổi đã vài trăm năm, cành lá um tùm như một mái xanh khổng lồ làm cho bố cục ngôi chùa rộng về diện tích trở nên vững vàng với những khối kiến trúc nhỏ, và đường nét mầu sắc mộc mạc của kiến trúc bằng gạch Bát Tràng.
Lầu bát giác có giá trị làm đẹp, chiếm vị trí điển hình và trung tâm của nhiều công trình kiến trúc tôn giáo như đền Lý Bát Đế hay đền Phù Đổng. Tám cột vuông và tường đều xây gạch Bát Tràng để trần đỡ hai mái tám góc cong cong. Nhà bát giác chiếm vị trí giữa sân đã khéo liên kết các khối kiến trúc nhỏ bé và chạy ngang của ngôi tiền đường và tả hữu mạc chín gian ở hai bên, thành một bố cục không gian quy mô lớn. Các điện thờ chính là những lớp nhà liên tiếp xếp theo lối bố cục cổ điển của bình đồ chùa là “nội công ngoại quốc”.
Chùa Thiên Hựu và chùa Chiêu Thiên nói ở đây bởi vì nó còn giữ được những nét riêng biệt của những ngôi chùa có quy mô tương đối to lớn làm nơi lễ Phật và cả tu hành cho nhà vua ở ngay kinh thành Thăng Long; ít ra còn lưu lại tới ngày nay một phong cách đáng lưu ý trong bố cục không gian như chùa Chiêu Thiên hay trong cấu tạo hình khối như chùa Thiên Hựu. Khó tìm thấy, hay nói khẳng định hơn trên công trình, không còn những chi tiết kiến trúc thời Lý để nói được đầy đủ về kiến trúc thời Lý. Tuy rằng hình mẫu những chạm khắc điêu luyện thời Lý còn lưu lại ở nhiều di tích phát hiện được ở nhiều công trình khảo cổ. Các di tích chạm khắc này cung cấp những tư liệu rất quý để nghiên cứu nghệ thuật tạo hình, nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam nhiều hơn là kiến trúc.
Nói đến chùa xây thời Lý không thể không xem xét chùa Vạn Phúc, ở Phật Tích (Bắc Ninh) với núi Tiên Du đã như một trung tâm Phật học có nhiều chùa kể cả thư viện Lan Kha do danh nhân Trần Tồn trông coi vào thời Trần. Chùa xây từ năm 1075. Nhà khảo cổ Pháp Bezacier khai quật năm 1940 đã phát hiện một di tích tháp với mặt bằng hình vuông, cạnh 8,5m, và cho rằng tháp cao khoảng 42m. Toàn ngôi chùa đã bị phá hồi chiến tranh chống Pháp. Còn lại trên mặt đất pho tượng Phật Di Đà lớn ngồi trên tòa sen, nhiều đá tảng chân cột chạm trổ và tượng đá trâu, ngựa voi, sư tử, tê giác… Qua nhiều bước trùng tu, kiến trúc chùa đã có nhiều thay đổi. Chùa đặt trên thềm cao ốp đá tảng với 10 tượng động vật to lớn xếp thành hai hàng đối xứng hai bên cầu thang đá 30 bậc, rộng 4m. Kiến trúc ngôi tiền đường từ tầm cỡ cột xà đến tường mái, tỏ ra công của cho sự trùng tu cuối cùng hầu như không kham nổi bề thế xưa của ngôi chùa quy mô to lớn. Tuy nhiên bình đồ ngôi chùa còn giữ hình mẫu điển hình “nội công ngoại quốc”: các ngôi nhà tiền đường, thiêu hương và thượng điện hợp thành chữ công, cùng với hành lang hai bên hậu đường nối vào hai gian trái ở đầu thượng điện vạch ra chữ quốc. Tiền đường 11 gian đặt tượng ông Thiện, ông Ác hai bên, còn ngôi thiêu hương 3 gian có tượng Thích Ca ngự ở giữa, hai bên, sát tường là 18 vị La Hán. Ngôi thượng điện 5 gian có tượng Di Đà ngồi cao trên tòa sen và còn lại ngày nay. Ngôi hậu đường 9 gian, gian giữa có tượng Lý Đế các gian khác đặt tượng các sư đã tu và tịch ở chùa trong đó có cả tượng Nguyễn Đồng Khoa là người đã lo việc sửa sang chùa dưới thời Thiệu Trị. Bên tay trái chùa có Nhà Tổ Đệ Nhất trong có tượng sư tổ Chuyết Công và nhiều vị sư khác. Bên tay trái chùa có nhà thờ một công chúa vợ Trịnh Tráng. Trước chùa, có gác chuông và cổng ngoài mang nhiều dấu tích trùng tu. Sau chùa, trên sườn núi, còn những tháp xây bằng đá đẽo với thời gian khác nhau.
Các nhà trùng tu di tích văn hóa ngày nay có ý giữ nguyên pho tượng Di Đà và các tượng động vật trên các nền chùa cũ như muốn đánh dấu trung tâm lịch sử cổ kính của Phật giáo nước ta.
Mặc dầu máy bay Mỹ oanh tạc ráo riết miền Bắc năm 1966, các nhà khảo cổ đã khai quật bảo tháp Vạn Long Thành Thiện tức tháp Chương Sơn trên núi Ngô Xá, ở xã Yên Lợi (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định cũ). Tháp dựng năm 1108 và hoàn thành năm 1117. Những viên gạch in chữ Hán ‘Lý gia đệ tứ Long Phù Nguyên Hóa ngũ niên tạo’ là hiện vật quý giá, xác định niên đại tháp được xây từ năm 1108, với gạch sản xuất từ năm 1105. Tháp Chương Sơn sừng sững trên núi với khí thế vươn lên của dân tộc Đại Việt. Nhưng để thực hiện chính sách đồng hóa ráo riết hòng làm cho người Việt mất hẳn tính dân tộc và tinh thần tự chủ, quân Minh đã phá hủy cho đến “một chữ chớ để còn, một mảnh, một chữ đều đốt hết”. Tháp Chương Sơn đã bị hủy diệt.
Ngọn tháp xưa chỉ còn lại cái đế cao 4m với 2 bậc lên xuống phía đông tây, và dải sân ôm quanh chân tháp. Chân tháp hình vuông mỗi cạnh 19m. Những di vật bằng đá như các bệ, các vòng hào quang hình lá đề, các cửa cuốn v.v… cho phép hình dung tháp có ít nhất cũng năm tầng. Tháp xây bằng gạch và đá. Các phiến đá xếp canh nhau, chồng lên nhau và gắn với nhau ở mặt ngang bằng chỉ nấu lỏng đổ vào lỗ mộng đục trong đá, hoặc gắn theo chiều dọc bằng dãy đồng sâu qua các lỗ đục ở mặt sau rồi xoắn hoặc buộc thắt nút lại. Một thứ vừa cũng đóng một phần quan trọng trong việc gắn kết các bộ phận xây bằng gạch.
Các di vật bằng đá và đất nung ở đây rất phong phú với nhiều đồ trang trí, có điêu khắc người múa nhiều điệu múa khác nhau, có rồng trong nhiều kiểu bố cục ở đầu con sơn, chim thần với hình dáng gần gũi chim thần garuda ở đầu con sơn, tượng vịt, tượng khỉ, tượng đầu người, hình chim, nhiều kiểu hoa lá, cây và sóng nước. Đáng lưu ý là thành bậc lên xuống chạm sóng nước, tay vịn chạm người múa dâng hoa.
Đây là công trình điều khắc độc đáo có nhiều ý nghĩa trong việc nghiên cứu nghệ thuật chạm khắc đá cũng như phong cách nghệ thuật nhảy múa của dân tộc ta thời Lý. Một đồ án trang trí tiêu biểu là rồng thời Lý, mà hình ngọn lửa hắt ra trước, bờm hất ngược uốn hình chữ S, thân uốn nhiều khúc, chân trước duỗi thẳng ra phía trước đỡ lấy ngọn lửa thiêng.
Ảnh tư liệu chùa Vạn Phúc (chùa Phật Tích, Bắc Ninh) xưa. Nguồn: Internet
Qua các di vật thời Lý này, có thể thấy nghề xây và chạm khắc đá đã phát triển rực rỡ; có thể đã có những công trường lớn chuyên làm gạch ngói phục vụ các công trình kiến trúc của Nhà nước, cũng có thể có những đoàn thợ chạm đá chuyên nghiệp tham gia xây dựng các chùa tháp cung điện.
Ngoài tháp Chương Sơn, còn nhiều di tích chùa và tháp thời Lý. Nào là tháp Báo Thiên ở Thăng Long, cao vài chục trượng “trấn áp đông tây, giữ vững kinh kỳ, ngọn tháp sừng sững cao trội vút lên như chiếc cột chống trời đứng đó làm cho sơn hà yên ổn, như mũi dùi trên đất từ xưa chẳng hề mòn”…, chùa Thần Quang tức chùa Dạm xây năm 1086 ở Quế Võ (Hà Bắc), 8 – 9 năm sau mới xong, nay còn tường kè đá, các thành bậc lưng đồi và một trụ đá trang trí hình rồng, nước; chùa Vĩnh Phúc (Linh Quang) cũng ở Phật Tích (Tiên Sơn) xây năm 1100, chùa Sùng Phúc (tức chùa Bà Tấm) xây năm 1115 ở Gia Lâm (Hà Nội) còn giữ được thành bậc bằng đá chạm hoa dây, chim phượng và tượng con sấu, nhất là hai đầu sư tử lớn đòi tòa sen.
Những tháp đồ sộ cũng được sử sách nhắc đến: tháp Chương Sơn xây 9 năm mới xong và theo Bezacier nếu chẳng cao đến 95m thì cùng ít ra 56m; tháp Sùng Thiện Diễn Linh ở núi Long Đại (Duy Tiên – Nam Hà xưa) theo văn bia, tháp “13 tầng chọc trời, mở bốn mươi cửa hướng gió” nay còn pho tượng Kim Cương cao xấp xỉ 1,60m tháp Chiêu An “chín tầng chót vót”. Đương nhiên chùa tháp chiếm ưu thế trong kiến trúc thời này bởi vì đạo Phật là quốc giáo cho nên “hễ có cảnh đẹp núi non thì không nơi nào là không xây dựng chùa chiền”. Ngày nay chúng ta nói đến kiến trúc thời Lý, thực chất là nói đến chùa thờ Phật xây dựng trong thời gian thịch vương của đất nước đã dành được tự chủ.
Một công trình thoát khỏi sự tàn phá và ngày nay còn giữ được, tuy rằng so sánh với di tích tháp xây trước, vào thời Lý, thì nhỏ bé hơn, đó là tháp Bình Sơn (Vĩnh Phú).
Tháp Bình Sơn là bộ phận còn lại của chùa Vĩnh Khánh ở xã Tam Sơn (Vĩnh Phúc). Tháp hoàn toàn xây bằng gạch nung, lòng tháp xây gạch khẩu mỏng, có loại vuông 22 × 22cm có loại hình chữ nhật 45cm x 22cm xây thành một trụ vuông rỗng giữa, vươn lên cao hơn 16m, càng lên cao càng hẹp cạnh để còn có 1m55 ở tầng 11, trong khi cạnh đáy là 4m45. Khái niệm tầng của tháp là do những hàng gạch xây nhô ra gợi hình ảnh diềm mái. Mặt ngoài, khối trụ xây gạch áo có trạm khắc, hình vuông 46cm × 46cm cứ 4 viên lại hoàn chỉnh một mô típ trang trí (hình I/24).
Liên kết gạch với nhau là những chốt cá chỉ và keo vữa. Chốt kín đáo xuyên qua gạch áo và gài chặt chẽ vào khối trụ lõi. Gạch còn có chân gấp khúc thước thợ để xây gài vào mặt tường. Các cá chì gắn các viên gạch với nhau, ràng buộc lớp vỏ áo. Vữa xây lõi, trông qua, có thể là một thứ đất sét vàng luyện với vôi, còn chất kết dính giữa các gạch áo có thể là thứ keo quen thuộc của nhân dân, trong đó thường có với mật mía và giấy dó. Trong kỹ thuật xây dựng, đáng chú ý là các viên gạch đều ghi rõ tầng thứ mấy, viên thứ mấy trong tầng đó. Qua trùng tu, ta thấy từ tầng thứ 9 trở lên, gạch bị xáo trộn nhiều ở tầng thứ 11, hiện nay có viên gạch đề “thập tam tầng” tức là tầng thứ 13. Nếu vậy, tháp có thể có 13 tầng nếu chỉ kể số lượng các diềm mái và 14 tầng nếu kể cả tầng dưới mái thứ nhất, tức là tầng đế tháp.
Hoa văn trang trí tháp rất phong phú ở tất cả các tầng. Đế tháp có chạm hình sư tử vờn quả cầu. Ở tầng một, hai bên cuối vòng cung (thường gọi là cửa) trang trí hình rồng có mào và uốn khúc trong ô vuông. Dưới mái là những hình trang trí lắp lại hình con sơn gỗ ba chạc quen thuộc diễu quanh bốn mặt tháp. Giữa các hình con sơn là những hình quầng lửa nhọn đầu, hình “lá đề”. Các tầng trên, hình rồng được thay thế bằng những hình tháp 5,6 tầng khắc đơn giản và những hình hoa chanh. Còn các trang trí dưới mái là những hình hoa dây uốn lượn
Trong khi mở mang kinh thành Thăng Long, bắt đầu từ năm 1293 các vua Trần đã cho xây dựng tại quê hương Tức Mạc của mình nhiều cung điện, lầu gác, nhà cửa gần như một kinh đô thứ hai với tên là Phủ Thiên Trường (1262). Ở đây có cung Trùng Quang làm nơi ngự cho các vua cha lúc đã nhường ngôi cho con, theo tục lệ nhà Trần; cung Trung Hoa dành riêng cho các vua ở kinh về thăm Thượng Hoàng. Ở bốn xã phía bắc Nam Định xưa, những tên làng như Phương Bông, Liêu Nha, Hậu Bối… Những tên cánh đồng như Vườn Quan, Nội cung, vườn Văn Chỉ, v.v… với các vết tích lòng sông Vị Hoàng. Sông Vĩnh Giang cũ chạy dài từ sông Hồng đến sau chùa Phổ Minh ở phía bắc thành phố Nam Định.
Chùa Phổ Minh dựng trong khu Phủ Thiên Trường xưa cách Trùng Quang và Trùng Hoa khoảng 400m. Chùa xây dựng vào thời thịnh vượng của triều Trần, năm 1262, có quy mô bề thế. Tấm bia dựng đời Lê Cảnh Trị để ở trước chùa ghi: “Cung điện nguy nga, đỉnh đồng nghìn quận trấn giữ, quy mô lộng lẫy, tháp Phật trăm thước dựng nên”. Đỉnh đồng ở đây chính là một trong “tứ đại khí” của nhân dân ta (gồm tượng ở chùa Quỳnh Lâm, Chuông Quy Điền ở chùa Một Cột, tháp Báo Thiên và đỉnh ở chùa Phổ Minh). Các công trình của ngôi chùa Phổ Minh ngày nay theo các bản vẽ do tác giả chỉ đạo khảo sát ghi chép tính từ tam quan đến ngọn tháp xa nhất chiếm một không gian dài 125m, còn chiều ngang ngôi chùa 41m lại trùng với chiều sâu 41m của kiến trúc ngôi chùa mà các khối điện thờ xếp thành chữ công, vuông vức một cách ít thấy hình.
Trong 9 gian của nhà bái đường, thì 3 gian giữa rộng hơn. Các cánh cửa gian chính tâm làm bằng gỗ lim 4 tấm mỗi tấm cao 1m92, rộng 0,72m. Nhiều hình trang trí cánh cửa, nhưng rất rõ ràng các hình rồng uốn khúc, những hoa văn sóng nước hay hoa văn hình hoa lá. Bốn cánh cửa chạm khác chìm nổi tương phản với những tấm cửa mộc để trần; qua các lần trùng tu, ít ra cũng phản ánh không khí trang nghiêm và u tịch của một nơi thờ Phật hầu như dành riêng cho nhà vua.
Tất cả các gian bái đường, thiêu hương, thượng điện còn để lộ rõ bình đồ hình chữ công cổ điển mặc dầu có những tường ngăn xây gạch đè lên các đá tảng chân cột còn giữ nguyên vị trí. Ngôi chùa bề thế này khiêm tốn ẩn hiện sau những tán cây sấu cổ thụ xanh thẫm quanh năm, nhưng vươn lên cao chỉ có một ngọn tháp dựng ngay trước cửa chùa.
Tháp 14 tầng, kể cả tầng để xây đả, cao gần 18m (theo các bản vẽ do tác giả hướng dẫn đạc họa và ghi chép năm 1959). Mặt bằng tháp vuông cạnh rộng 5,21m ở chân tháp. Tầng dưới xây bằng đá, bốn cạnh hình trụ, đầu trụ đỡ mỗi cạnh một xà ngang theo phong cách kiến trúc gỗ. Bốn mặt tường đều có cửa cuốn tò vò với đường viền chạm khắc hoa dây. Đế của cây tháp xây đã với nhiều gờ chỉ chắc chắn, phần trên chạm nổi những hình cánh sen, in dấu ấn của phong cách kiến trúc và chạm khắc triều Trần, vào năm 1305 là niên đại đã ghi vào gạch nung. Mười ba tầng trên của tháp xây gạch nung mỏng có 5 16, liên kết với nhau bằng dây đồng, ít ra là ở các lớp mái. Mỗi tầng cách nhau bằng những lớp gạch đua ra khỏi mặt tường và đỡ một lớp gạch đạt dốc theo hình diềm mái. Gạch nung có trang trí cạnh ngoài hình rồng vờn mây. Đỉnh tháp được kết thúc bằng quả hồ lô, xưa kia làm bằng đồng, nay được xây bằng gạch và trát vữa.
Với bảy trăm năm tồn tại dưới nắng mưa nhiệt đới và qua bao cuộc chiến tranh, chùa Phổ Minh chắc chán đã có nhiều đổi thay sau nhiều cuộc trùng tu; kể cả những công trình mới làm như nhà bia ở phía trước. Còn cần phải nhiều công phu nghiên cứu mới đánh giá đúng đắn những giá trị kiến trúc và nghệ thuật của chùa và tháp Phổ Minh, mặc dầu ta có thể đạt nhiều tin cậy vào bình đồ toàn ngôi chùa xếp đặt theo công thức “nội công ngoại quốc cùng với ngọn tháp làm cho toàn bộ kiến trúc không gian của chùa bố cục chặt chẽ, hòa hợp giữa các không gian kiến trúc cũng như gắn chặt công trình mọc lên từ những bàn tay thiên tài của nghệ nhân Việt Nam với phong cảnh và thiên nhiên nhiệt đới của đất nước.
Tác giả
Ngô Huy Quỳnh
Tổng hợp & Biên tập
Anh Nguyên
Ảnh
Triệu Chiến