Nghệ thuật tượng gỗ dân gian Tây Nguyên

Việt Nam có nền nghệ thuật dân gian rất phong phú và hấp dẫn của các dân tộc Tây Nguyên. Ở đây ngoài các sản phẩm thủ công, đồ dùng trong gia đình như quần áo, đồ trang sức v.v… còn bắt gặp những chạm khắc và tượng gỗ mà bất cứ ở buôn nào, làng nào cũng có. Tuy đã bị mất mát khá nhiều qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhưng những còn lại cũng đủ làm bằng chứng cho một nền nghệ thuật dân gian độc đáo, hơn thế nữa giữa các phong cách nghệ thuật dân gian có lẽ đây là phong cách ít biến đổi nhất.

Rừng là thiên la địa võng, là những mũi tên, là cây ná chống quân thù để giữ buôn làng. Rừng gắn liền với cuộc sống thường ngày, là môi trường cho cuộc sống, là nguyên liệu làm cho nghệ thuật nảy nở. Nói một cách khác người dân Tây Nguyên đã bắt rừng phục vụ cho con người trên mọi phương diện kể cả nghệ thuật. Cây gỗ, cây nứa từ bỏ cuộc sống âm thầm để hóa thân vào cuộc đời mới, thành chiếc tẩu hút thuốc, cái tang trống, cây cán giáo, cái ná, cái nỏ, cầu thang. Ngoài cuộc đời thực dụng tre gỗ còn sống với cuộc đời nghệ thuật, bởi trên mình nó đã mang nặng một hình dáng và những trang trí do sự cần cù và yêu đời của con người mang lại.

Làm mái nhà mồ tộc người Ba Na, làng Pơ Yang, thị trấn Kông Chro, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2009). Ảnh: Trần Phong

Ngoài những thứ có công dụng thường ngày đó còn có các cột, trên tạc hình biểu trưng cái nồi hoặc cánh tay thần ở nhà rông, hoặc các tượng gỗ đặt ở các nhà mồ. Những tượng gỗ này tập trung sự chú ý của mọi người hơn vì số lượng nhiều và đề tài thường liên quan mật thiết với con người. Hơn nữa có đầy sức hấp dẫn, đóng vai trò thức tỉnh sự âm thầm của rừng của núi.

Nói đến tượng gỗ Tây Nguyên là nói đến tượng nhà mồ, cùng một lúc mang hai yếu tố tín ngưỡng và nghệ thuật. Tước bỏ yếu tố tín ngưỡng đi, cái còn lại là một gia tài nghệ thuật phong phú. Với những dụng cụ thô sơ, với tấm lòng trung hậu thuần phác, người nghệ sĩ vô danh dân gian Tây Nguyên đã đặt hết ưu ái, tính nhân đạo của mình, của buôn làng vào những khúc gỗ bình dị, đối với người đang sống và cả người đã mất.

Nhà mồ tộc người Gia Rai, làng Kepping, xã Ia Mnông, huyện Chư Pah, tỉnh Gia Lai (chụp năm 2006). Ảnh: Trần Phong

TƯỢNG GỖ TÂY NGUYÊN TÍN NGƯỠNG VÀ NGHỆ THUẬT

Với quy hoạch không rộng lắm cho khu nhà mồ, diện tích trung bình của một nhà mồ khoảng 48m2, nếu nhiều nhà mồ thì diện tích sẽ rộng ra không tuân theo một quãng cách nhất định nào. Đất nhà mồ nào cũng đều tuân theo một hướng nhất định là Đông-Tây. Người chết được chôn đầu ở hướng Đông và chân ở hướng Tây, biểu hiện cho người chết đã vĩnh viễn đi vào đêm tối, vào một thế giới khác.

Khu nhà mồ tộc  người Ba Na, làng Pơ Yang, thị trấn Kông Chro, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2015). Ảnh: Trần Phong

Một nhà mồ thường chia làm hai phần; nhà dành cho phần xác và nhà dành cho phần hồn. Nhà dành cho phần xác là nhà chính, trên quan tài được dựng nhà lợp lá ngoài đan phên có hoa văn; ở đầu và chân quan tài có 2 tượng hoặc những hình sừng, ngà voi canh giữ, bên ngoài có hàng rào gỗ vây bọc, bốn góc có bốn tượng người và trên các trụ hàng rào là hình chuộng, hình nồi…

Nhà phần xác theo hướng Đông-Tây, nhà dành cho phần hồn theo hướng Nam-Bắc và cách chân người chết khoảng 3m. Nhà cho phần hồn có 3 hàng cột chạy song song với nhau và nối với nhau bằng nhiều đòn tay đơn giản. Phần cao ở giữa cao hơn tượng trưng cho phần hồn. Hai hàng thấp hơn ở các đầu cột có hình nồi hoặc ngà voi. Hiện nay quy hoạch này ít thấy hơn mà hình thức khá phổ biến là chỉ có một nhà dành cho cả phần xác lẫn phần hồn.

Sự ổn định nhà mồ cũng vậy, tùy từng dân tộc và tùy từng địa phương có nơi dựng và hoàn chỉnh nhà mồ ngay sau khi chôn cất xong, có nơi hai, ba năm mới hoàn chỉnh vào lúc làm lễ bỏ mả. Những hình tượng được đặt vào trong phạm vi nhà mồ nhiều nhất là hình người, có nơi thì theo một ước lệ bốn gốc là bốn hình người giữa là hai con công và hai con mèo, nhưng không phổ cập lắm. Ngoài hàng rào có thể là bốn góc bốn hình người nữa hoặc không thì chỉ có hình nồi, hình chuông, hình ngà voi…

Vào một số nhà mồ, đập vào mắt trước tiên là một hoặc hai cột Clao cao vút, biểu hiện cho sự trong sáng của linh hồn thoát xác về trời, về với thế giới người chết. Với nhà mồ đẹp đẽ, trang nghiêm, đầy đủ, người chết sẽ yên tâm ra đi hơn, không trở lại quấy rầy người đang sống. Người chết có nơi cho phần xác yên nghỉ, có nơi cho phần hồn thảnh thơi. Theo quan niệm xưa kia của đồng bào Tây Nguyên thì người chết “yên trí” vì có sự bảo vệ cho cả phần xác lẫn phần hồn. Đó là hai tượng gỗ dựng ở hai đầu phần xác, hai tượng hoặc các cặp ngà voi ở hai đầu phần hồn. Người chết đã có bạn đông vui và bình đẳng đó là bốn tượng ở bốn góc hàng rào, đã có đầy đồ chơi đó là các con rối, các hình nhạc cụ, các ché rượu cần, đó là mèo là công là nồi lá rau dớn… để người chết “yên tâm” vì đầy đủ thủ vật, lương thực và đồ gia dụng. Người chết sẽ vui vẻ ra đi qua thế giới của họ bằng đường lên trời, đó là cột Clao cao vút, ở cột có hình tắc kè giữ lửa, có chim Chrao, có hoa Plang, có mặt trăng, mặt trời, có hình chong chóng, hình lửa… Ở đó lại có các cây Dang prai nhiều màu là tín hiệu nhắc nhở với người đang sống rằng: “Thôi! chị, bác, anh đã thành rừng rồi đừng hỏi nữa”…

Người dân Tây Nguyên muốn người chết ra đi một cách yên ổn, vui vẻ thỏa mãn, không biết thế giới bên kia có gì, họ chuẩn bị cho người chết một cách hết lòng, một cách nhân đạo vừa vì người chết, cũng vì những người đang sống.

Nhà mồ tộc người Ba Na ở làng Bong, xã Lơ Ku, huyện KBang, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2015). Ảnh: Trần Phong

Ngoài tín ngưỡng đeo đẳng theo họ, an ủi họ trong những đụng độ của cuộc sống, ngày lễ bỏ mả hay ngày hoàn thành nhà mồ là để thực hiện một tin ngưỡng và là một dịp để sinh hoạt nghệ thuật trong một quy mô lớn, không phải một buôn, một làng mà cho nhiều buôn làng tham dự, đóng góp. Họ nhảy múa, ca hát, ngâm thơ, kể chuyện cổ tích, kẻ chuyện anh hùng ca… quanh nhà mồ vừa mới hoàn thành. Có một số nơi ở huyện An Khê tỉnh Gia Lai – Kon Tum dịp này cũng là dịp trở tài múa rối đưa những con rối về biếu người chết làm đồ chơi.

Các nghệ nhân ở Tây Nguyên tạc tượng nhà mồ. Ảnh: Trần Phong

Tượng phụ nữ tộc người Ba Ba, làng Đak Gia, xã Ya Hội, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 1986). Ảnh: Trần Phong

Tượng phụ nữ tộc người Ba Na, làng Đak Gia, xã Ya Hội, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai (chụp năm 2013).

Tượng đá bóng, tộc người Gia Rai, buôn Phum, xã Ia Rsiom, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 1986). Ảnh: Trần Phong

Những con rối thể hiện người giã gạo, người đánh trống, người cầm súng, có con chồn, con khỉ, con chim gõ kiến… được đặt trên phiến gỗ có ròng rọc chạy đi chạy lại và rối cử động nhờ các cần điều khiển. Sau khi hoàn thành các con rối, các già làng và những người làm ra chúng phải cúng một con heo để làm cho “trời không đánh, ma không làm” về tội phạm thượng đã tái tạo ra con người. Trong buổi vui chia tay giữa người sống và người chết này, trò múa rối được tổ chức quanh nhà mồ, mỗi con rối được bốn thiếu nữ chưa chồng khiêng và một hoặc hai thanh niên chưa vợ điều khiển.

Tượng đi săn, tộc người Ba Na, làng Brưl, xã Chơ Long, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 1990). Ảnh: Trần Phong

Cuộc múa rối được tiến hành quanh nhà mồ theo sau là nhảy múa ca hát đánh chiêng, trống… ở dưới ba ngọn cờ đỏ, đen, trắng, được coi như điểm hội tụ thu hút các niềm vui, thôi đừng than khóc, buồn phiền nữa. Cũng trong buổi lễ bỏ mả này, người dân Tây Nguyên còn thưởng thức tài đẽo gọt, tạc các hình người, hình thú, thưởng thức vẻ đẹp của nhà mồ, tài năng làm ra các con rối, mọi người xuýt xoa khen ngợi và thành những câu chuyện truyền khẩu lan từ buôn này sang làng khác. Sau buổi lễ họ ra về với vẻ thỏa mãn, yên tâm với điềm lành cho những ngày sắp tới.

Tượng giã gạo, tộc người Ba Na, làng Đê Nghe Kteh, thị trấn Kông Chro, tỉnh Gia Lai (chụp năm 1986). Ảnh: Trần Phong

Mặt người tộc người Gia Rai, làng Chăm, huyện Ia Grai, Gia Lai (chụp năm 1986). Ảnh: Trần Phong

Đôi nam nữ đứng trước nhà mồ, dân tộc Gia Rai, làng Kepping, xã Ia Mnông, huyện Chư Pah, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2014). Ảnh: Trần Phong

Bất cứ buôn nào, làng nào cũng có những người thợ khéo, những nghệ sĩ dân gian, họ tập họp nhau lại dưới sự chỉ dẫn của các già làng để dựng nhà mồ, tạc tượng, làm con rối, vẽ hoa văn trang trí… Tượng gỗ Tây Nguyên với rất nhiều đề tài, có thể là tượng nam, hoặc nữ, có mặc quần áo hay khỏa thân, đứng hoặc ngồi chống tay lên má. Cũng có khi là tượng người mẹ bế con, người đánh trống, người cầm súng, hoặc lại có một vài lính Tây lính Mỹ… Tất cả, từ tượng người, tượng thú, các hình biểu trưng trong một không gian tự nhiên đã trở thành một cơ cấu mật thiết, không thể tách rời.

Lễ bỏ mả tộc người Gia Rai,  làng Kepping,  xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Pah, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2004). Ảnh: Trần Phong

Uống rượu cần ngày Lễ bỏ mả của tộc người Gia Rai, làng Chep, xã Ayun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2011). Ảnh: Trần Phong


Tổng hợp
Anh Nguyên

Ảnh
Trần Phong

Lễ bỏ mả tộc người Ba Na, xã Lơ Ku, huyện KBang, tỉnh Gia Lai. (chụp năm 2007). Ảnh: Trần Phong