Nghệ thuật khảm sành sứ (mosaique) ở Việt Nam vốn có từ lâu đời và xuất phát từ trong dân gian. Có mối quan hệ mật thiết với nghề gốm và nghề “ nề ngoã ” xây dựng, trang trí kiến trúc. Từ thế kỷ 17 – 18, nghệ thuật ghép mảnh sứ trang trí kiến trúc ở nước ta khá thịnh hành, trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã mô tả Phú Xuân (Huế) vào đầu thế kỷ 18 như sau: “… Nơi đây cung điện, lầu gác, mái lớn nguy nga, đài cao rực rõ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm khắc vẽ vời khéo léo vô cùng… Tường trong tường ngoài đều xây dày mấy thước, lấy vôi mật và mảnh sứ đắp thành hình rồng, phượng, lân, hổ, cỏ hoa…”
Đến thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nghệ thuật ghép mảnh sứ phát triển, sử dụng trang trí rộng rãi trong các kiến trúc đình chùa, cung điện, lăng tẩm Huế.
Buổi đầu, trong quá trình xây dựng nhà ở, những người thợ ngõa đã có sáng kiến tận dụng những mảnh gốm sứ phế phẩm ở các lò gốm thải vứt đi hay những mảnh gốm sứ tiêu dùng hàng ngày bể vỡ, góp nhặt lại làm chất liệu trang trí kiến trúc. Qua bàn tay khéo léo, nghệ thuật của những người thợ ngoã đã lựa chọn, mài giũa tỉ mỉ, những mảnh gốm sứ màu gắn ghép lại thành những đồ án trang trí kiến trúc: cổng nhà, đầu hồi, bờ mái… đến những bức đại tự, câu đối, bình phong, tường hoa, bể núi non bộ, chậu cây cảnh bày chơi trước sân nhà cho đẹp mắt. Sau áp dụng trang trí trên những công trình kiến trúc công cộng như đình, chùa làng thì nguyên liệu sành sứ do dân làng đóng góp.
Đến khi nghệ thuật khảm sành sứ được sử dụng trang trí trên những công trình kiến trúc qui mô to lớn của vua chúa phong kiến, thì người đảm nhận công việc này phải là các nghệ nhân có tài, có nhiều kinh nghiệm, đã từng thể hiện trang trí trên nhiều công trình kiến trúc. Họ là những nghệ sĩ bậc thầy đầy tài năng được nhà nước phong kiến tuyển lựa, trưng tập ở các nơi về làm, còn nguyên liệu sành sứ nhà nước thu mua tại cửa lò gốm ở trong nước hoặc mua đồ sứ của nước ngoài đem và đập ra làm chất liệu khảm tranh – tượng theo yêu cầu thể hiện nghệ thuật của người thợ ngõa.
Trong nghệ thuật khảm sứ có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa hội họa và điêu khắc. Chất liệu sành sứ không chỉ sử dụng ghép hình phẳng mà còn ghép hình nổi (phù điêu) hay tượng các con vật linh như rồng, phượng, lân, hổ, rùa… Dưới ánh sáng ngoài trời, những mảnh gốm sứ màu phản chiếu lung linh. Nền tranh và cốt tượng khảm sứ lên đều đắp nặn bằng chất vôi “hầu” tức vỏ con điệp nung chín thành vôi, trộn với cát, giấy dó, và mật thành một thứ vừa quánh dẻo, bền chắc, dù phải phơi bày ngoài trời, dầu dãi nắng mưa lâu ngày cũng không bị biến chất là vụn ra. Còn chất keo dính gần các mảnh sứ, thủy tinh cũng làm bằng vôi “hầu” thật nhuyễn mịn, trộn thêm với dầu lạc để khi tranh, tượng khảm mảng sứ đặt ngoài trời không thấm hút nước mưa hay bị ánh nắng hủy hoại làm bong các mảnh gốm sứ ra.
Ảnh: Trần Trung Ngạn
Đỉnh cao của nghệ thuật khảm sành sứ Việt Nam, tiêu biêu và đặc sắc hơn cả là những bức tranh khảm sứ thủy tinh màu trang trí trong lăng Khải Định. Bước vào trong nội điện lăng Khải Định, nơi cử hành những nghi lễ cúng nhà vua, dễ thấy rực lên một thế giới màu sắc lộng lẫy, lung linh kỳ ảo đầy ánh sáng và biểu tượng của những bức tranh khảm sứ và thủy tinh màu trải rộng khắp trên bốn mặt tường, tạo nên một không khí vui tươi rực rỡ tinh thần cuộc sống con người, chứ không còn là nơi lăng mộ, nhà mồ âm u lạnh lẽo ,buồn thảm ghê rợn của cõi chết nữa.
Tại nơi dây, di sản nghệ thuật truyền thống của dân tộc không chỉ được hấp thụ kế thừa, phát triển, mà còn được nâng cao chuyên hóa dần cho thích nghi với hoàn cảnh vật chất và tinh thần mới. Nếu trước đây, tranh khảm sành sứ bị hạn chế trong một số gam màu cố định trên sành sứ, nên sự chuyển sắc trên tranh không phong phú, thì đến nay, tranh khảm sứ được bổ sung thêm những gam màu óng ánh rực rỡ của thủy tinh màu. Với chất liệu mới này, dần dần không còn xa lạ đối với các nghệ nhân khảm sứ của ta, họ đã biết tận dụng khai thác hết những khả năng lợi điểm sẵn có của thủy tinh, lấy ánh sáng phản quang đổi chiều của mặt kính tạo ra hiệu quả nghệ thuật làm nổi bật khối hình không gian có chiều sâu của hình ảnh khảm trên tranh.
Do sự tương phản giữa chất và màu trong suốt của thủy tinh, với chất và màu trầm rắn chắc của sành sứ đã tạo nên những bức tranh ghép mảnh có giá trị nghệ thuật độc đáo, kết hợp được cả tính truyền thống với tính hiện đại trong tranh khảm sứ Huế.
Từ những đồ án trang trí đơn giản hình “tết nút” đa dạng, mềm mại như những dải lụa màu tết lại, đến những bức tranh ghép mảnh cỡ lớn thiể hiện theo đề tài truyền thống biểu tượng cho sự cầu chúc tốt lành như: rồng chầu chữ thọ, tranh tứ quý thể hiện hình ảnh các loại cây cỏ, hoa lá, chim thú (Mai điểu – chim đậu cành mai, Liên áp – vịt bơi bên hoa sen, Cúc điệp – bướm đậu trên hoa cúc hay Tùng lộc – con hươu đứng dưới cây tùng) tượng trưng bốn mùa xuân – hạ – thu – đông; tranh tứ linh: long, ly, quy, phụng; tranh bát bửu gồm quạt, phủ phất, cây như ý, cung kiếm, đàn sáo, giấy bút, hòm sách… Bằng chất liệu cứng rắn của sành sứ, thủy tinh màu, các nghệ nhân đã biến hóa chúng thành những hình tượng nghệ thuật uyển chuyển, vui tươi, sống động.
Đặc biệt, trên trần nhà tòa chính tẩm còn treo lủng lẳng chiếc “bửu tán” đắp bằng vôi vữa nặng trên một tấn cũng khảm kín mảnh gốm sứ, thủy tinh màu một cách tinh xảo, khéo léo, làm người xem mất hết ấn tượng nặng nề của chất xi-măng cốt sắt, mà lại thấy nó nhẹ nhàng như chiếc tán bằng vải gấm thêu đung đưa trước gió.
Tuy tranh ghép mảnh gốm sứ phủ dày đặc kín bốn mặt tường nội điện, nhưng nhờ bố cục tài tình của nghệ nhân, có sự phân cách giữa các đề tài với nhau bằng những ô hộc hay những đường điềm làm khung tranh thành những khoảng cách chỗ ngừng nghỉ mắt nên người xem tranh thấy thoải mái, hứng thú.
Có thể nói, toàn bộ những bức tranh khảm sứ, thủy tinh màu trang trí trong nội điện lăng Khải Định là một tác phẩm nghệ thuật trang trí hoành tráng đặc sắc của Việt Nam. Cũng như tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam, nghệ thuật khảm sành sứ của ta trên đà phát triển, đã thâm nhập cả vào những nơi quyền quý của phong kiến, ngang nhiên xuất hiện nơi thâm cung cấm địa, trong các cung điện lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn, tạo ra một vẻ đẹp quyền quý kết hợp với cái đẹp bình dân dàn trải trên khắp mặt tường tòa nội diện, không còn một khe hở nào để nghệ thuật ngoại lai có thể len lỏi lấn át được nghệ thuật truyền thống đậm đà sắc thái Việt Nam, đối lập hẳn với sự tiếp xúc đổi mới pha tạp của cái vỏ bên ngoài kiến trúc xây theo lối kết cấu nghệ thuật châu Âu.
Sự đột khởi, trội nổi của nghệ thuật khảm sành sứ trang trí nội thất lăng Khải Định đã làm cho mọi người ngưỡng mộ nghệ thuật dân tộc phải sửng sốt, ngỡ ngàng trước kỹ thuật và nghệ thuật thể hiện tranh ghép mảnh của ta về cách sử dụng chất liệu, màu sắc tươi vui, rực rỡ, hài hòa đầy gợi cảm rất phù hợp với tâm hồn tình cảm của dân tộc. Những bức tranh ghép mảnh đó là một kỳ quan nghệ thuật do các nghệ nhân bậc thầy của ta thật đáng phâm phục, cần được giữ gìn bảo quản tốt công trình nghệ thuật trang trí hoành tráng phản ánh rõ tư tưởng, tình cảm, ý thức tham mỹ của người Việt.
Trong bối cảnh lịch sử của đất nước Việt Nam hồi dầu thế kỷ 20, trước sự du nhập, tấn công mạnh mẽ của nghệ thuật phương Tây, thì sự xuất hiện nghệ thuật tranh ghép mảnh sành sứ ở Huế với các đề tài truyền thống đã biểu lộ sức mạnh tinh thần, ý thức dân tộc của các nghệ sĩ Việt Nam hướng tìm về cội nguồn truyền thống văn hóa nghệ thuật của dân tộc.
Tác giả
Nguyễn Bá Vân
Tổng hợp
Anh Nguyên
Ảnh bên
Bảo Khánh