Ghi chép từ khu chuyên gia Hòa Bình

Thực hiện bởi: NOTES | Nội dung: Minh Anh

Trong hành trình đi tìm cách kể chuyện bằng kiến trúc, tôi trở lại khu chuyên gia Hòa Bình – một di tích sống của giai đoạn hợp tác kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên Xô vào nửa sau thế kỷ 20. Từng là một mô hình khu ở lý tưởng, nay khu này tồn tại như một vùng ký ức đang bị bào mòn dần bởi thời gian, sự can thiệp tự phát và lãng quên từ các chiến lược phát triển đô thị.

Ảnh: Triệu Chiến

Tôi đến đây vào một buổi chiều tháng 6, ánh sáng lặng lẽ soi lên những mặt tiền chung cư đã phủ đầy rêu. Khối nhà tập thể đánh số 14–16, nằm ở một giao điểm ba đường, thể hiện rõ một ngôn ngữ kiến trúc công năng – nơi khối thang giao thông nổi bật như một trục xương sống giữa khối nhà. Hành lang dài, tầng trệt thông thoáng, khoảng sân trung chuyển. Những giải pháp tổ chức không gian này phản ánh tinh thần của kiến trúc Xô Viết: chuẩn hoá, module hoá, tối ưu hóa công năng sống và thông gió tự nhiên. Tuy nhiên, lớp kiến trúc ban đầu giờ đây bị biến dạng bởi những can thiệp mang tính sinh tồn – người dân dựng vách, cơi nới, tận dụng từng mét vuông để phơi quần áo, nuôi gà, trồng cây. Không gian trở thành giao điểm của hai lớp ý thức: quy hoạch có chủ đích ban đầu và sống còn tùy nghi sau đó.

Ảnh: Anh Nguyên

Trên các đỉnh đồi phía sau, vẫn còn đó những khối công trình của bệnh viện, trường học – từng phục vụ các chuyên gia Liên Xô. Tôi nhận ra một logic tổ chức không gian theo tầng bậc địa hình, nơi khu ở dành cho các chuyên gia cấp cao nằm ở cao độ lớn hơn, liên kết thị giác và vật lý với khu nhà ở của kỹ sư, công nhân phía dưới thông qua các hệ bậc thang và sân mở. Giải pháp giải phóng tầng trệt ở nhiều khối nhà không chỉ tạo thông thoáng mà còn mở ra các trục nhìn chiến lược về phía thành phố. Tuy nhiên, nhiều “trục nhìn” ấy hiện đã bị bít lại – vì lấn chiếm, vì cơi nới, vì thiếu quy chuẩn bảo tồn.

Ảnh: Anh Nguyên

Ngày quay phim thứ hai, không khí xám nhạt như phủ một lớp bụi mịn lên cảnh quan. Ánh sáng tự nhiên yếu, người dân ít xuất hiện, cửa đóng kín. Bối cảnh đó làm tăng thêm cảm giác hoài niệm và cô lập. Những không gian từng có chức năng xã hội – như sân chơi, hành lang – giờ đây trở thành vùng trũng thị giác, chứa đầy dấu vết lãng quên.

Kiên trì lần theo từng lớp vật liệu, từng chi tiết phù điêu ở khu nhà máy thủy điện liền kề, tôi thấy dù nội dung những tấm phù điêu là di sản ngôn ngữ thị giác, đánh dấu một thời kỳ lý tưởng hóa lao động – nơi kiến trúc còn mang chức năng giáo dục tập thể.

Phần giá trị nhất của hành trình này không nằm ở cảnh quay, mà ở những cuộc gặp. Tôi tình cờ làm quen với một bác thợ gỗ – người từng làm việc trong đội xây đập. Qua đôi tay còn lưu thói quen công xưởng và những vật liệu tái sử dụng trong xưởng nhỏ dưới chân chung cư, tôi thấy lại cả một hệ thống sinh tồn sau khi chuyên gia Liên Xô rút đi. Vật liệu bị tháo dỡ, tái sinh, biến thành cửa, vách, bàn ghế – như cách con người lưu giữ kiến trúc bằng ký ức thao tác.

Khu chuyên gia Hoà Bình. Thực hiện: Minh Anh, Triệu Chiến

May mắn hơn, tôi được gặp bà tổ trưởng tổ dân phố – người kể lại nhiều lớp chuyển động xã hội của khu này: từ những buổi xem pháo hoa trên đồi đến thời kỳ “đại tu” cẩu thả. Bà không chỉ kể chuyện mà còn cung cấp cho tôi một phương pháp: rằng để quay một bộ phim kiến trúc, hãy bắt đầu bằng việc lắng nghe.

Câu hỏi của tôi không còn là “Khu này còn giá trị không?”, mà là: “Làm thế nào để kiến trúc trở thành nơi người ta kể chuyện?”

Dự án phim tài liệu kiến trúc mà tôi đang thực hiện – có thể dài 15 phút hoặc hơn – không phải để đi tìm sự hoàn hảo của khuôn hình, mà để khám phá những mảnh ghép đô thị đang sống tiếp trong điều kiện không hoàn hảo. Thay vì cố gắng tạo nên một bản hùng ca về kiến trúc Xô Viết, tôi chọn tiếp cận khu chuyên gia Hòa Bình như một lớp đất mỏng – nơi ký ức, vật liệu, người kể và người nghe cùng sống sót. Khu chuyên gia không còn mới. Nhưng nếu coi kiến trúc là một thể sống – thì nơi đây vẫn đang thì thầm, qua từng thớ gỗ, từng viên đá lát, từng lời kể dịu dàng của bà già tổ trưởng.


Xem thêm hình ảnh khu chuyên gia Hoà Bình