Renzo Piano

Renzo Piano là một kiến trúc sư người Ý, nổi bật với các công trình như Centre Georges Pompidou tại Paris, The Shard ở London, Bảo tàng Mỹ thuật Whitney ở New York, Trung tâm Văn hóa Quỹ Stavros Niarchos ở Athens, v.v. Ông đã nhận Giải Pritzker năm 1998. Năm 2013, ông được bổ nhiệm làm Thượng nghị sĩ trọn đời tại Italy.

Sinh ra trong một gia đình có cha là thợ xây, Renzo Piano thừa nhận rằng chính gia đình là yếu tố đầu tiên định hình nên ông. Những trải nghiệm tuổi thơ đã gieo mầm cho mối quan tâm đặc biệt đến không gian kiến trúc – một mối quan tâm không đến từ sách vở mà từ sự va chạm trực tiếp với vật liệu, công trường, bàn tay lao động và quá trình kiến tạo thần kỳ.


Tuổi thơ của ông như thế nào? Có liên quan đến hành trình thực hành kiến trúc sau này?

Thật khó để nói một cách dứt khoát, vì có quá nhiều yếu tố góp phần hình thành nên con người. Hơn nữa, ta cũng cần cẩn trọng, bởi nếu dành quá nhiều thời gian để suy ngẫm về nguồn gốc, cội rễ, lịch sử, tuổi thơ, ta có thể rơi vào chiếc bẫy của hoài niệm và lãng mạn hóa quá khứ. Điều giữ con người tiếp tục sống không phải là những gì đã làm hay từng là, mà là những gì sẽ trở thành và sẽ thực hiện. Vậy nên việc nghĩ quá nhiều về nguồn cội là một hành động có phần nguy hiểm, dù rằng ở một độ tuổi nhất định, điều đó trở thành tự nhiên. Có lẽ tôi nên nói rằng chính gia đình là thứ đầu tiên hình thành nên tôi.

Cha tôi là một thợ xây nhỏ bé. Điều này quan trọng, bởi khi còn bé mà đã bắt đầu lựa chọn đến công trường xây dựng cùng cha thay vì nhà nghỉ ngoại ô là một khởi đầu đầy hứa hẹn. Tôi nghĩ đó là một phần trong quá trình hình thành nên con người tôi. Có nhiều yếu tố định hình con người, đặc biệt trong thời thơ ấu và tuổi vị thành niên. Rồi tất nhiên, tôi nghĩ biển cả cũng là một yếu tố quan trọng. Tôi sinh ra tại ở Genoa – một thành phố không lớn, một cảng công nghiệp nhỏ.

Kiến trúc sư Renzo Piano ngày còn bé. Ảnh: Metalocus

Genoa dường như là một giá trị tinh thần của ông?

Thường thì chúng ta lớn lên với ý tưởng rằng sẽ rời đi để khám phá thế giới. Biển là một lời mời gọi kỳ lạ để khám phá. Điều đó đến một cách tự nhiên. Bạn đi lên đi xuống, đi dạo, ngắm biển một cách đầy lãng mạn. Biển giống như một nơi bí ẩn mà một ngày nào đó bạn sẽ đến. Không chỉ là một lời mời, biển, đặc biệt là Địa Trung Hải còn là ánh sáng, âm thanh, vị giác, sự dao động và cả tiếng nói, bởi vì Địa Trung Hải như một nồi súp, không chỉ đơn thuần là biển.

Địa Trung Hải là nơi giao thoa của bao nền văn hóa từ Bắc Phi, phương Đông, phương Tây đến bán đảo Iberia. Vì thế, đây là yếu tố tiếp theo góp phần hình thành nên tôi. Tôi có thể nói mãi về điều này. Có lẽ thành phố nơi tôi sinh ra và lớn lên là một nơi đặc biệt bởi Genoa là một thành phố cổ. Một thành phố được làm bằng đá, nơi ta hiểu vì sao con người ra khơi và rồi lại quay trở về, tìm thấy sự che chở nơi những con hẻm nhỏ, chật hẹp của thành phố. Biển cả thì rộng mở và bao la, còn thành phố thì bao bọc, che chở.

Đá và nước là hai yếu tố cấu thành nên một nơi chốn, cụ thể ở đây là một thành phố biển. Đá dưới chân và nước ngoài khơi. Khi nói về đá, về biển, về bến cảng, thì cũng đang nói về những con tàu. Tàu là thứ thú vị vì chúng không chạm đất, chúng nổi. Tôi nghĩ có người từng nói, và tôi tin điều đó đúng “… rằng khi bạn tám hay chín tuổi, bạn đã có trong mình tất cả những gì cần thiết cho cả đời. Bạn đã mang dưới làn da mình tinh chất của bản ngã.”

Điều này không phải là một ý niệm lãng mạn?!

Với tôi, điều đó khá đúng. Sự thật là ở độ tuổi đó, khi bạn sống trọn vẹn trong môi trường địa phương, với những khao khát mãnh liệt, thì chúng sẽ mãi ở lại bên mình. Cái bản địa đó trở thành phổ quát, không còn tính địa phương mà trở thành bản sắc chúng ta mang theo bên mình. Rồi tất nhiên, chúng ta tiếp tục trưởng thành. Tôi không phải là một nhà tâm lý học, nhưng tôi nghĩ rằng khi bạn 18 hay 19 tuổi, những giá trị khác bắt đầu xuất hiện về các giá trị văn hóa và xã hội. Đó là hai thứ khác nhau đến để nâng đỡ chúng ta.

Và cũng thật tuyệt vời khi nhận ra rằng xã hội là một điều thú vị, cụ thể thứ tôi đề cập ở đây là khái niệm cộng đồng. Chúng ta học cách trò chuyện với nhau, lắng nghe và thấu hiểu nhau, tranh luận và trao đổi với nhau. Những giá trị đó đến muộn hơn một chút, nhưng chắc chắn chúng định hình chúng ta. Tôi nhớ khi còn là sinh viên ở Milan, khoảng chưa tới 24 tuổi, đó là lúc tôi bắt đầu đặt câu hỏi về thành phố. Tôi đi dạo trên phố, nói chuyện với mọi người, phát hiện ra bầu trời, những dòng sông, những khu rừng.

Tôi nhận ra sự rộng lớn của thế giới. Có quá nhiều thứ tạo nên chúng ta, vượt qua giới hạn để rồi ta có những người bạn không nhất thiết làm cùng một việc với ta. Kết bạn với nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, đạo diễn phim, nhiếp ảnh gia… rồi chúng ta bắt đầu hòa vào thứ bouillabaisse – một nồi súp sáng tạo đậm đà – nơi cái đẹp, nghệ thuật và sự khai phá hội tụ và lan tỏa. Thật khó để đánh giá điều gì là quan trọng nhất: tuổi thơ, tuổi vị thành niên, hay lúc chúng ta bắt đầu trở thành một công dân.

Có một điều chắc chắn: “Kiến trúc là nơi mọi thứ hội tụ lại với nhau.”

Centre Pompidou. Ảnh: Jean-Pierre Dalbéra

Văn phòng Renzo Piano Building Workshop nằm trên phố Rue des Archives ở Paris. Ông có nhớ studio đầu tiên của mình ở Paris không?

Đó là bên kia đường, không xa “hiện trường vụ án” lắm: Centre Pompidou. (cười)

Tôi đến Paris lần đầu vào năm 1971 là vì Centre Pompidou cùng Richard Rogers. Hồi đó, chúng tôi đang ở London thì chuyển tới đây. Khi ấy một cuộc thi quốc tế mở về việc xây dựng một trung tâm văn hóa tại Plateau Beaubourg, thuộc khu Le Marais, trung tâm Paris. Đó là ý tưởng được Bộ trưởng Văn hóa André Malraux khởi xướng trước đó vài năm. Thời điểm chúng tôi tới Paris chỉ mới vài năm sau phong trào tháng Năm 1968 đầy biến động nên bối cảnh rất phù hợp để làm điều gì đó khác biệt.

Ông có bao giờ nghĩ rằng Beaubourg sẽ trở thành biểu tượng như vậy không?

Không hề. Chúng tôi làm việc vì hơi “điên” và vì tin vào điều mình làm. Thời điểm đó, bảo tàng là một khái niệm dần trở nên xa lạ, có gì đó mang tính tinh hoa nên khiến ít người đến. Đó là thời điểm thích hợp để thay đổi điều đó.

Khi đó tôi 33 tuổi. Richard Rogers lớn hơn tôi bốn tuổi – một người “cao tuổi” (cười)!

Chúng tôi là những chàng trai trẻ nổi loạn, nhưng không ngốc. Chúng tôi hiểu rằng ở một thành phố như Paris phải tạo ra một nền văn hóa có thể tiếp cận và không đáng sợ. Năng lượng đến từ “tò mò” là điểm xuất phát của mọi thứ khi còn trẻ và chưa bị “gò bó” bởi sự tinh hoa. Ý tưởng tạo ra một “nhà máy vui nhộn”, bên trong có âm nhạc, nghệ thuật, điện ảnh, thư viện, giáo dục… tạo ra nơi bạn đến vì một mục đích, rồi bị cuốn hút bởi nhiều thứ khác. Chỉ đơn giản vậy!

Ông dùng màu sắc tươi sáng như xanh lục, đỏ, xanh dương, vàng, vì sao?

Đó là cách ngôn ngữ hình tượng để thể hiện ý tưởng về một cỗ máy. Cỗ máy này cũng mở ra thành phố. Khi đi thang cuốn lên cao, có một khoảnh khắc bạn sẽ nhìn thấy thành phố và quảng trường. Tại trung tâm Paris, bạn thu hút người ta ngay khi bạn mở không gian.

Ngôi nhà cũ của Bảo tàng Nghệ thuật Whitney tại tòa nhà Marcel Breuer được nhiều người yêu thích là một công trình khó có thể thay thế, nhưng cơ sở mới do Piano thiết kế tại Khu Meatpacking của Thành phố New York đã đáp ứng được kỳ vọng. Ảnh: Nic Lehoux

Sau dự án đó, ông sang Mỹ làm Menil Collection và các bảo tàng khác. Tại sao lại thay đổi so với phong cách trước?

Đời sống là vậy, thật may là như vậy!

Cậu biết đấy, kiến trúc là một hoạt động mà nếu có sự lặp lại thì thật dại, bởi kiến trúc dựa trên rất nhiều yếu tố khác biệt từ địa điểm, con người, thời điểm, khí hậu…. Giống như kể chuyện hay làm phim, chúng ta luôn có một câu chuyện riêng để kể. Và chính chúng ta bản thân cũng đổi thay theo thời gian mà.

Menil Collection. Ảnh: Hickey / Robertson 

Có những công trình như Whitney hay New York Times rất quen thuộc; nhưng The Shard ở London thì hoàn toàn khác biệt. Vì sao?

Rất đơn giản. Ở Pháp, người ta gọi đó là fil rouge – sợi chỉ đỏ kết nối mọi thứ. Có sự liên kết giữa các công trình, nhưng không phải về phong cách dễ nhận diện mà về tính toàn vẹn. Nếu cậu là nhà văn, cậu có cách viết riêng, có ngôn từ riêng; kiến trúc sư cũng vậy.

Điều gì truyền cảm hứng cho ông khi thiết kế kiến trúc?

Một yếu tố không bao giờ thay đổi trong nguồn cảm hứng của tôi là ánh sáng. Có lẽ từ việc tôi sinh ra ở thành phố biển Genoa như đã đề cập. Tôi nghĩ cái nhẹ nhàng mới hấp dẫn. Tôi thích tưởng tượng một toà nhà như chiếc tàu bay, và khái niệm tàu bay là fil rouge. Beaubourg như một con tàu nằm giữa Paris; Whitney ở New York như một chiếc tàu trên West Bank, bên sông Hudson.

Ông yêu thích việc thiết kế những công trình công cộng?

Điều tuyệt vời nhất trong kiến trúc là tạo nên những thứ mà mọi người mong cầu. Tôi làm nhiều thứ khác nhau bởi vì tôi yêu quá trình kiến tạo chúng. Tạo ra một công trình với tôi đó là cử chỉ của hòa bình, là hành động kết nối mọi thứ lại với nhau, cũng là phép màu, bởi trên công trường, đôi khi có hàng ngàn người cùng làm việc. Tôi rất thích thiết kế những công trình công cộng như trường học, đại học, thư viện, bảo tàng, nhà hát, bệnh viện, tòa án… những thứ khi được dựng lên trong lòng đô thị sẽ tạo ra một sự thân thiện tuyệt đẹp. Chúng là nơi con người gặp gỡ và chia sẻ giá trị chung.

Khai trương năm 2016, Trung tâm Văn hóa Quỹ Stavros Niarchos tại Athens được thiết kế bởi Renzo Piano Building Workshop theo các tiêu chuẩn khắt khe về môi trường. Ví dụ, mái vòm khổng lồ của trung tâm được phủ 10.000 m2 pin quang điện, đủ để tạo ra 1,5 megawatt điện cho thư viện và nhà hát opera bên dưới. Ảnh: Michel Denancé

Ông từng thiết kế sân vận động Saint Nicholas ở Bari, Trung tâm Văn hoá Stavros Niarchos ở Hy Lạp, cải tạo khu Lingotto ở Turin, mở rộng Thư viện Morgan ở New York, và thực hiện nhiều phòng hòa nhạc. Mỗi dự án có vẻ đều rất khác nhau?

Khác nhau, nhưng đồng thời chúng luôn xoay quanh sự gặp gỡ và chia sẻ cảm xúc của con người. Một công trình trở nên quan trọng vì nó tạo ra cảm giác của sự quây quần. Bạn có thể nghe nhạc ở nhà, nhưng nếu nghe cùng 2000 người khác, thì đó là sự tham gia. Một nửa vẻ đẹp của phòng hòa nhạc là âm nhạc, nửa còn lại là cảm giác được ở cùng nhau để tận hưởng cái đẹp đó.

Làm thế nào ông có thể suy nghĩ về quá nhiều yếu tố, từ an toàn đến âm học?

Khi thiết kế một sân vận động, thì đó là một sân vận động. Khi làm một phòng hòa nhạc, bảo tàng hay bệnh viện thì ưu tiên lại hoàn toàn khác. Về mặt kỹ thuật, chúng ta cần phải thấu hiểu sâu sắc, đó là lý do vì sao cần những cộng sự và một văn phòng làm việc. Bạn cần làm việc nhóm. Cần hợp tác với các nhà khoa học, nhà thiết kế, chuyên gia âm học… Kiến trúc là một nghề thân thiện. Bạn cần vừa là người thợ, vừa là một nhà nhân văn, bởi vì nó liên quan đến con người. Và kiến trúc sư cũng cần là một thi sĩ, bởi vì nếu thiếu vẻ đẹp, công trình sẽ không thể là nơi con người cảm thấy ổn. Vẻ đẹp là một khái niệm khó, dễ bị xem là hời hợt nhưng vẻ đẹp thực sự thì không hời hợt, bởi đó là điều người kiến trúc sư áp dụng không chỉ cho phần thấy được, mà cả cho khoa học và tri thức.

Ông học được điều đó từ chiếc thuyền buồm của mình, khi ngồi ngắm biển?

(Cười) Bạn chẳng bao giờ biết mình học được bằng cách nào. Tôi lớn lên trong một gia đình làm nghề xây dựng quy mô nhỏ, với ý niệm rằng việc tạo nên một công trình là phép thuật thuần túy. Điều này là động lực rất lớn khiến tôi học kiến trúc vào đầu thập niên 60, khi giới kiến trúc đang cố gắng tìm cách tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Bạn trưởng thành với những ý niệm đó, rồi bắt đầu xây dựng. Nếu bạn may mắn và có mặt đúng lúc, đúng chỗ, thì kiến trúc là hành động tạo ra những công trình phản chiếu sự thay đổi của xã hội như đã đề cập ở trên với Centre Pompidou.

Kiến trúc sư Renzo Piano. Ảnh: Vittoriano Rastelli / Corbis via Getty Images

Vậy, kiến trúc của ông có thay đổi không?

Tôi không cảm thấy mình thay đổi. Tôi vẫn sống trong bầu không khí hứng khởi, có phần điên rồ khi làm việc cùng người khác. Mỗi sáng tôi đến văn phòng và bắt đầu “hiện diện”. Tôi không biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nhưng cuộc khiêu vũ bắt đầu, luôn luôn là như vậy.

Công việc chúng tôi đang làm vẫn xoay quanh không gian công cộng. Tôi xây một phòng triển lãm ở Moscow, một công trình ở Los Angeles cho Giải thưởng Viện Hàn lâm, một bệnh viện ở Uganda… Cái thay đổi là những ưu tiên. Gần 50 năm trước, chẳng ai quan tâm đến sự mong manh của Trái Đất. Giờ thì chúng ta quan tâm đến năng lượng, đến biến đổi khí hậu, và ý thức rằng ta có trách nhiệm xây dựng những công trình bền vững chất lượng cao.

Ở Hy Lạp, chúng tôi đang thực hiện ba dự án bệnh viện, đó là những thành tố rất quan trọng trong đời sống công dân. Các bệnh viện này được thiết kế để hấp thụ năng lượng mặt trời nên mức tiêu thụ năng lượng rất thấp. Chúng tôi sắp hoàn thành một bệnh viện ở Uganda đạt mức phát thải bằng 0 bởi vì Uganda đang rất nỗ lực khai thác năng lượng từ mặt trời. Triết lý xây dựng công trình ngày nay đã khác.

Điều gì khiến ông quyết định xây dựng cây cầu mới ở Genoa?

Đó là một quyết định hoàn toàn mang tính cảm xúc.

Nhưng ông chưa từng thiết kế cầu trước đây?

Tôi đã từng. Tôi từng xây cầu Ushibuka dài gần 1 km nối ba hòn đảo Amakusa ở Nhật Bản, và một cây cầu khác ở Chicago. Tôi biết về vụ sập cầu ở Genoa vào ngày định mệnh 14 tháng 8 năm 2018 khi đó tôi đang ở Thụy Sĩ, đã có 43 người thiệt mạng. Khi một cây cầu sụp đổ, nó không chỉ sụp đổ một lần, mà là ba lần. Đó là những nạn nhân, những kết nối bị mất và cả ý nghĩa biểu tượng cũng không còn. Một cây cầu đảm nhận một vai trò vô cùng to lớn. Cầu không bao giờ được phép sập. Phản ứng đầu tiên của tôi là “Chúa ơi, thật khủng khiếp”, và tôi bắt tay vào công việc ngay khi thị trưởng và thống đốc vùng gọi điện đề nghị tôi suy nghĩ về phương án thay thế.

Ông thực hiện nó rất nhanh?

Vâng, tôi phải làm thật nhanh. Tôi lập tức tìm đến ngành công nghiệp đóng tàu ở Genoa, vì xây cầu bằng thép ở đó là điều hợp lý, có thể chế tạo các bộ phận lớn, vận chuyển bằng đường thủy rồi nâng lên. Tôi chia dự án thành phần liên quan đến thép tiền chế và trụ bê tông.

Cầu mới có vững chắc không?

Chắc chắn rồi.

Nó sẽ tồn tại bao lâu?

Một cây cầu phải tồn tại hàng ngàn năm, nhưng không gì tồn tại được lâu đến vậy nếu thiếu tình yêu. Tôi gọi việc bảo trì là một hành động yêu thương, bạn phải yêu công trình của mình. Ở Nhật, mọi thứ có thể tồn tại hàng ngàn năm vì chúng được chăm sóc liên tục, vì người ta yêu quý chúng. “Tình yêu” nghe có vẻ lãng mạn, nhưng tôi dùng từ ấy để nhấn mạnh rằng công trình cần được chăm chút. Không có gì, kể cả làm bằng đá có thể tồn tại thiên thu nếu không có sự quan tâm.

Các công trình cũ nhìn có vẻ rất bền vững, ngay cả các công trình thời phát xít ở Ý như của Giuseppe Terragni. Những công trình mới, từ Beaubourg của ông đến Frank Gehry, trông thật ngoạn mục nhưng liệu chúng có bền?

Chúng sẽ trường tồn nếu được yêu thương, nếu chúng hữu ích và trở thành một phần của đời sống và nghi lễ đô thị. Beaubourg đã tồn tại gần nửa thế kỷ (hơn 40 năm) và tất nhiên bạn cần bảo trì, nhưng nó giống như một cây cầu, như một hạ tầng hơn là một tòa nhà; nó là một cỗ máy nằm giữa trung tâm thành phố.

Chúng tôi có thực hiện bảo trì một tòa án ở phía Bắc Paris, gần Saint-Denis, vốn là một khu vực khó khăn ở ngoại ô. Công trình đó sẽ tồn tại lâu dài, lý do không nằm hoàn toàn ở cách nó được xây, mà ở vai trò của nó trong thành phố. Nếu chúng trở thành thiết yếu thì khi công trình hòa vào đời sống đô thị, chúng trở thành minh chứng rằng một thành phố có thể là nơi đáng sống.

Một số kiến trúc sư phản đối nhà cao tầng, nhưng ông đã thiết kế nhiều tòa nhà chọc trời, như The Shard ở London chẳng hạn?

Tôi không nghĩ rằng cao tầng là tốt hay xấu. Nó tốt nếu nó tốt, và xấu nếu nó xấu. Trong đô thị, đôi khi việc xây lên cao là hợp lý, nếu không, bạn sẽ đánh mất mật độ.

Ở New York thì có lý, nhưng còn những nơi khác thì sao?

Nếu bạn phân tán cùng một lượng hoạt động theo chiều ngang, thì bạn chiếm quá nhiều diện tích, khiến thành phố mở rộng về ngoại vi. Sự phát triển đô thị không nên là bành trướng mà là “co rút hướng tâm”. Ngoại vi mới là nơi thành phố không còn là thành phố, nông thôn cũng chưa hẳn. Ngoại vi đôi khi nguy hiểm, đôi khi chỉ là nhàm chán. Phát triển thành phố nên bắt đầu bằng việc can thiệp vào những gì đã tồn tại, nhất là những thành phố như London, vốn đã thiết lập vành đai xanh từ lâu. Thành phố nên giữ được ranh giới, bên ngoài là nông thôn.

Ông từng đoạt giải Pritzker năm 1998 và nhiều giải danh giá khác, và năm 2013 trở thành Thượng nghị sĩ trọn đời của Ý nhưng nghe nói ông không nhận lương?

Thực ra tôi vẫn nhận lương để trả cho 12 bạn trẻ mỗi năm làm việc cùng tôi tại văn phòng của Thượng viện ở Palazzo Giustiniani. Họ cùng tôi thực hiện các dự án cải tạo vùng ven đô của Ý.

Ông có thích làm chính trị không?

Có chứ, nhưng không phải theo hình thức phổ thông. Cuộc sống chính trị của tôi là tập trung cải tạo các vùng ven đô, và đó là điều tôi làm. Tôi được trả công cho điều đó. (Cười)

Đừng quên từ “politics” bắt nguồn từ “polis” có nghĩa là thành phố trong tiếng Hy Lạp. Làm việc cho thành phố, đặc biệt là vùng ven (vốn được xem như phần yếu nhất) chính là hành động chính trị. Tôi thích quan điểm của người Athens, một chính khách phải trao trả lại cho thành phố một nơi tốt đẹp hơn sau nhiệm kỳ của mình. Rất mạnh mẽ, rõ ràng! Đó là lý do tôi tin vào giá trị của chính trị.

Ông có quen với chính trị từ trước không? Vì để xây dựng công trình công cộng ở bất cứ đâu, ông phải làm việc với chính quyền địa phương?

Kiến trúc luôn là chính trị theo nghĩa cao đẹp. Ba, bốn mươi năm trước, mục tiêu lớn là bảo tồn các trung tâm đô thị lịch sử và ngày nay điều đó đã đạt được, thậm chí có phần dư thừa. Giờ thì mục tiêu là cứu lấy vùng ven.

Khi ông thấy Nhà thờ Đức Bà bốc cháy, hay thấy Tháp Đôi sụp đổ, cảm nghĩ của ông thế nào? Ông có mối liên hệ cảm xúc với công trình đến mức cảm thấy đau đớn không?

Chiến tranh, sự hủy diệt thật kinh khủng, và nó chạm đến tôi. Một cách ngẫu nhiên, tôi có mặt ở New York cùng gia đình ngày 11/9/2001. Tôi đang đi bộ trên đại lộ Madison thì nhìn thấy khói lửa, rồi thấy toà tháp sụp đổ. Khi Nhà thờ Đức Bà cháy, tôi cũng ở đây, nhìn ngọn lửa. Khi chứng kiến tận mắt, bạn chỉ biết im lặng. Bạn không thể phản ứng. Nhưng ngay sau đó, bạn phải hành động!

Ông hành động bằng cách nói: “Tôi phải xây lại”?

Đúng vậy. Với ngọn tháp của Nhà thờ Đức Bà, tôi luôn yêu phần đó nhất, dù nó được xây gần đây. Tháp được dựng năm 1859 sau khi Victor Hugo viết “Thằng gù Nhà thờ Đức Bà” năm 1831. Sau Cách mạng Pháp, Nhà thờ từng không còn là một nhà thờ. Phần tháp ấy được kiến trúc sư Eugène Viollet-le-Duc dựng lại, có đầy đủ tài liệu về điều này. Rồi mọi thứ sẽ được tái thiết thôi!

Còn những công trình của riêng ông thì ông có yêu tất cả không? Có công trình nào khiến ông hối tiếc?

Bạn yêu tất cả những đứa con của mình. Không thể nói yêu đứa này hơn đứa kia, nhưng rõ ràng có đứa khiến bạn quan tâm nhiều hơn vì nó cần bạn. Tôi yêu Beaubourg, vì mỗi lần ra khỏi văn phòng, tôi đều thấy nó. Nhưng khi ở New York, tôi yêu Bảo tàng Whitney, toà nhà văn phòng của tôi nằm đối diện. Bạn yêu công trình vì chính nó – không thể so sánh. Nhưng tôi có thể nói, tôi đặc biệt yêu những công trình (gần đây) mình đang làm như yêu một đứa trẻ, bởi vì trẻ nhỏ luôn cần được chăm sóc.

Có lẽ ông cũng yêu cả những công trình chưa thực hiện?

Đó là điều giúp bạn tiếp tục sống. Thành thật mà nói, điều giữ bạn sống không phải là những gì đã làm, mà là những gì chưa làm.

Ông muốn làm gì nhất?

Điều tôi muốn làm chính là điều tôi đang làm, đó là kiến tạo những nơi chốn cho con người. Nghe có vẻ buồn cười nhưng tôi đã làm quá nhiều rồi. Tại triển lãm ở Royal Academy, họ dựng một hòn đảo giả tưởng và đặt tất cả các công trình tôi từng thiết kế ở cùng một tỷ lệ. Có hơn 100 công trình.

Thành viên có ảnh hưởng nhất trong ban giám khảo chọn ông cho dự án Beaubourg là Jean Prouvé – một kiến trúc sư thiết kế nhà cho dân thường. Ông có từng muốn làm điều tương tự?

Tôi vẫn đang làm thế. Một trong những dự án do 3 bạn trẻ ở Thượng viện thực hiện mà tôi đã kể là họ làm việc với vùng ven. Đó là một công trình diện tích 20m² trong nhà tù Rebibbia ở Rome. Đây là nhà tù dành cho nữ giới, nơi nhiều phạm nhân có con nhưng không thể nuôi trong tù, và chúng cần một chỗ để sih hoạt khi đến thăm mẹ. Ngân sách là 30.000 euro. Tôi làm việc trong các dự án từ ngân sách chỉ 30.000 euro đến các dự án nửa tỷ đô ở London hay New York.

Ông có xem mình là người may mắn vì đã xây công trình khắp thế giới?

Có, nhưng đó không phải là điều khiến tôi hạnh phúc. Hạnh phúc đến từ việc được ghép mọi thứ lại. Việc dựng một công trình vẫn mang lại cho tôi niềm vui y hệt như thuở bé khi ngồi trên công trường của cha để quan sát. Khi bạn quan sát ngay cả một công trường khiêm tốn, bạn sẽ thấy con người di chuyển, gạch được mang tới, rồi bức tường hiện ra. Bạn trở thành chứng nhân cho phép màu của việc kiến tạo.

Ông cũng yêu chiếc thuyền buồm của mình lắm phải không?

Đó là đam mê thứ hai. Tôi yêu cảm giác được nổi giữa mặt nước.


Biên tập & Tổng hợp
Anh Nguyên