Kiến trúc Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp xâm lược

Dưới triều Nguyễn, đời sống thị dân chủ yếu tập trung trong các phường hoặc một số làng nghề. Nhờ vậy, nhiều ngành thủ công như gốm, chạm khắc, dệt vải và lụa có điều kiện phát triển hơn trước. Đồng thời, hoạt động buôn bán với nước ngoài cũng gia tăng, tuy mức độ thăng trầm tùy thuộc chính sách của từng vị vua. Tuy nhiên, chính sách bế quan tỏa cảng đã hạn chế đáng kể sự trao đổi hàng hóa, kìm hãm khả năng sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng vốn được thương nhân Anh, Hà Lan ưa chuộng, như tơ lụa hay đồ chạm khắc. Điều này khiến thủ công nghiệp mất đi cơ hội phát triển mạnh mẽ. Trong lĩnh vực kiến trúc, công nghiệp vật liệu chỉ dừng lại ở việc sản xuất đồ đất nung tráng men hay các sản phẩm chạm khắc trong phạm vi quan xưởng của triều đình, phục vụ riêng cho việc xây dựng cung điện và lăng tẩm. Men Huế – một loại vật liệu trang trí đặc trưng – cũng chỉ giới hạn trong quy mô các quan xưởng này. Hơn nữa, luật lệ hà khắc của nhà Nguyễn đã thu hẹp quyền xây dựng của nhân dân. Vì vậy, dù tồn tại những đô thị và giang cảng sầm uất như Hà Nội, Phố Hiến hay Đà Nẵng, vốn phát triển nhờ giao thương quốc tế, kiến trúc ở đó vẫn bó hẹp trong quy mô nhỏ.

Mặc dầu thực hiện được công cuộc thống nhất đất nước, nhưng các triều đại nhà Nguyễn đã đi vào giai đoạn cáo chung của chế độ phong kiến, do những chính sách cực kỳ phản động đang kìm hãm sự phát triển sức sản xuất. Chủ nghĩa thực dân đã hà hơi tiếp sức cho giai cấp phong kiến, và trùm thêm gông xiềng thứ hai lên đầu lên cổ nhân dân lao động Việt Nam.

Sau khi triều đình Huế ký Hòa ước Patenôtre ngày 6/6/1884, thực dân Pháp chính thức đặt nền thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Chủ nghĩa tư bản theo đó du nhập, thúc đẩy nền kinh tế trong nước có bước chuyển biến đáng kể. Người Pháp mở một số nhà máy như diêm, điện, rượu… nhưng trọng tâm hoạt động của họ vẫn là thương mại. Riêng tại Hà Nội, đến năm 1891 đã xuất hiện 64 hãng buôn của người Âu và 72 hãng buôn của Hoa kiều. Hệ thống giao thông cũng được mở rộng: tuyến đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn khởi công từ năm 1889, và đến năm 1913, đoạn Hà Nội – Vinh đã hoàn thành, nằm trong kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt xuyên Đông Dương.

Dưới áp lực khai thác và bóc lột của thực dân Pháp, các công ty độc quyền đã nhanh chóng xây dựng trụ sở tại hai trung tâm lớn là Hà Nội và Sài Gòn. Có thể kể đến những tên tuổi như U.C.L.A. (Union Commerciale Indochinoise et Africaine), Denis-Frères, Boy Landry, Poinsard et Veyret, Descours Cabaud… Ở Hà Nội, các trụ sở và cửa hàng của họ tập trung dọc các tuyến phố mới hình thành như Tràng Tiền và Hàng Khay. Trong khi đó, các thương nhân Hoa kiều lại bám giữ các khu phố truyền thống mà họ đã sinh sống lâu đời, như Hàng Buồm, Hàng Ngang, Hàng Bồ. Ở Sài Gòn, họ tập trung đông đúc tại Chợ Lớn, hình thành cả một khu đô thị gắn liền với Kênh Đôi (quận 8 nay) và rạch Bến Nghé (quận 1 nay).

Một trong những công ty có ảnh hưởng lớn nhất là Công ty xe lửa Đông Dương và Vân Nam – doanh nghiệp độc quyền khai thác đường sắt. Ngay từ năm 1902, công ty này đã xây dựng trụ sở chính tại Hà Nội, đồng thời cho ra đời Ga Hà Nội cùng nhiều nhà ga khác trải dọc các tuyến đường sắt, đánh dấu sự hiện diện của kiến trúc thuộc địa trong cảnh quan đô thị Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Nét kiến trúc Pháp tại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914–1918), làn sóng tư bản Pháp lại ồ ạt đổ sang Đông Dương, kéo theo sự xuất hiện của nhiều công trình kiến trúc công nghiệp và thương mại tại các thành phố lớn, như nhà máy dệt Tếch-xo, hãng xe đạp Béc-xê, nhà máy in L.D.E.O, nhà máy nước đá La-ruy, cùng những cửa hàng quy mô như Chaffanjon ở Hà Nội, cửa hàng Charner trở thành một biểu tượng thương mại thời bấy giờ ở Sài Gòn. Các định chế tài chính Pháp cũng nhanh chóng hiện diện với trụ sở Ngân hàng Đông Dương và các trụ sở công ty thổ địa Đông Dương lần lượt đặt văn phòng ở Hà Nội, Sài Gòn cũng như nhiều thành phố lớn khác.

Song song với đó, giai cấp tư sản Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh hơn. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, đã có những công ty và cửa hàng quy mô đáng kể do người Việt sáng lập. Sau chiến tranh, xu hướng này càng rõ nét: ở Hà Nội, Công ty Quảng Hưng Long sản xuất xà phòng, đồ sắt, chiếu dệt, đèn thắp; xưởng thêu Trương Đình Long sử dụng tới hơn 300 công nhân; năm 1924, nhà máy vỏ hộp Ích Phong tại Thụy Khê còn có cả lò nấu gang để chế tạo các sản phẩm sắt, gang; bên cạnh đó là xưởng sơn của Công ty Hiệp Ích, xưởng máy Yên Mỹ, hay nhà máy gạch Hưng Ký… Tuy vậy, đa số các cơ sở công thương Việt Nam giai đoạn này vẫn dừng ở quy mô vừa và nhỏ.

Nhu cầu phát triển công nghiệp và thương mại đã kéo theo sự hình thành của giới thầu khoán trong ngành kiến trúc và xây dựng, đặc biệt tập trung tại Hà Nội. Chỉ trong giai đoạn 1923–1927, riêng ở Bắc Kỳ đã có 155 thầu khoán người Pháp nhận công trình công chính với tổng trị giá hơn 1,8 triệu đồng, và 449 thầu khoán người Việt với tổng trị giá hơn 4,3 triệu đồng. Những công ty kiến trúc và xây dựng lớn như Lavallois-Perret, Brossard-Mopin, Lamocte, F.A.C.I hay Eiffel dù nhập khẩu sắt thép từ Pháp, nhưng tại chỗ vẫn vận hành những xưởng hàn, tiện, đúc và mộc quy mô, sử dụng tới hàng nghìn thợ lành nghề.

Bên cạnh các công ty kiến trúc, đội ngũ công nhân xây dựng chuyên nghiệp cũng tập trung chủ yếu tại những thành phố lớn. Các chủ thầu thường thuê thêm thợ mộc, thợ nề từ nông thôn ra làm việc sau mùa vụ, bởi ở làng quê, những nghề này vốn chỉ được xem như nghề phụ của nông dân.

Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, ngoài các công trình công nghiệp và thương mại, người Pháp còn cho xây dựng hàng loạt công trình hành chính trọng yếu tại các đô thị lớn. Ở Hà Nội có Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Nhà Bưu điện, Kho bạc, Nhà Đốc lý; ở Sài Gòn cũng hiện diện những công trình tương tự. Đáng chú ý, tòa án ở cả Hà Nội và Sài Gòn đều được xây dựng cạnh các nhà tù kiên cố – một sự sắp đặt giàu tính biểu tượng cho quyền lực thuộc địa. Trước đó, từ năm 1884, Hà Nội đã có Nhà thờ Lớn – một trong những dấu ấn kiến trúc sớm nhất của thời kỳ này.

Nhà thờ Cửa Bắc tại Hà Nội. Ảnh Triệu Chiến

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, một số công trình văn hóa quan trọng mới được khởi dựng. Năm 1925, Hà Nội bắt đầu xây dựng tòa nhà chính của Trường Đại học Đông Dương, trụ sở Sở Tài chính, đồng thời triển khai thiết kế cho Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) và Nhà thờ Cửa Bắc. Đến năm 1930, thành phố tiếp tục hoàn thành Viện Pasteur, Bệnh viện Bạch Mai và trụ sở của Trường Viễn Đông Bác cổ, đều là những công trình đánh dấu bước phát triển mới trong diện mạo kiến trúc đô thị thời thuộc địa.

Bảo tàng Louis Finot xưa, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Bảo tàng Louis Finot xưa, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Dưới triều Nguyễn, tại các thành phố có xây thành, khu vực ngoại thành dần xuất hiện những công trình hành chính phục vụ bộ máy cai trị của thực dân Pháp: từ dinh công sứ, sở kho bạc cho đến nhà tù và trại lính. Ở Hà Nội, quá trình này đi xa hơn. Chính quyền thực dân cho phép các nhà thầu mại bản phá dỡ nhiều cung điện và tường thành, để rồi đến năm 1894 hầu hết kinh thành Hà Nội đã bị san phẳng.

Tôi đã đến quá muộn, không thể cứu vãn được những bộ phận đáng chú ý. Đặc biệt là những công trình thành lũy đáng ra cần được giữ gìn, vì chúng mang những đặc tính và ký ức lịch sử xứng đáng được trân trọng. Chúng có thể đã trở thành điểm nhấn tô điểm cho diện mạo đô thị trong tương lai.

Toàn quyền Paul Doumer

Song song với việc phá hủy di sản văn hóa, như san bằng chùa Báo Ân để dựng Nhà Bưu điện và Phủ Thống sứ, phá chùa Báo Thiên (có niên đại từ thế kỷ XI) để xây Nhà thờ Lớn Hà Nội, hay phá hủy các thành cổ ở Sài Gòn, Bắc Ninh và nhiều đô thị khác từ Bắc chí Nam, thực dân Pháp cũng mang tới Việt Nam những phong cách kiến trúc mới từ chính quốc.

Công trình Bắc Bộ Phủ xưa tại Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Từ mái Mansard lợp đá thạch bản, đến các kiểu thức kiến trúc tân cổ điển, hiện đại Pháp, và cả những biến thể kiến trúc vùng miền của họ, tất cả dần trở thành hình mẫu trong xây dựng đô thị thuộc địa. Người Việt bắt đầu bắt chước các chi tiết kiến trúc như bệ đỡ (piédestal), đầu cột (chapiteau) theo hệ thức (ordre) Pháp, coi đó như một chuẩn mực thẩm mỹ cho những ngôi nhà của công chức và tầng lớp tư sản mới nổi. Chính từ đây, hình thức kiến trúc phương Tây bắt đầu len lỏi và để lại dấu ấn trong kiến trúc Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Các thành phố thuộc địa được hình thành khá hỗn độn, dù tại những đô thị lớn vẫn tồn tại một số quy định chi phối việc xây dựng nhà cửa. Ngoài những đồ án lý thuyết, như Plan prophétique du colonel Coffyn (bản “quy hoạch tiên tri” năm 1862, dự tính Sài Gòn sẽ có 500.000 dân), phần lớn quy hoạch đô thị khi đó chỉ dừng lại ở bản vẽ mở thêm một số tuyến đường mới và mở rộng các đường cũ. Cơ quan công chính vạch sẵn chỉ giới, tạo nên những lô đất theo ô bàn cờ, mỗi khu rộng khoảng một héc-ta, chiếm tỷ lệ lớn trong quỹ đất thành phố. Cách quy hoạch này được áp dụng đồng loạt, từ những địa hình miền núi như Bắc Cạn, Cao Bằng đến đồng bằng như Hà Nội hay Sài Gòn.

Về sau, lối quy hoạch ô bàn cờ bộc lộ sự đơn điệu. Trong giai đoạn kháng chiến sau Thế chiến II, đã xuất hiện ý tưởng vạch quy hoạch Hà Nội theo mạng lưới đường vòng cung, kết nối các ngã năm, ngã sáu bằng hệ thống đường tỏa nan quạt. Tuy nhiên, những thử nghiệm này mới chỉ tồn tại trên giấy. Thực tế phân chia đất đai, tổ chức giao thông và bố trí khu dân cư vẫn giữ nguyên theo mô hình cũ. Những tuyến đường mới mở thường khiến giá đất tăng vọt, mang lại lợi ích lớn cho chủ đất, dù có nơi ban đầu rất vắng vẻ, chỉ lát đá, trải nhựa nhưng lâu sau mới có nhà cửa mọc lên, như trường hợp ở Phú Thọ.

Bản đồ quy hoạch các đô thị lớn như Hà Nội hay Sài Gòn cũng phản ánh rõ tính phân tầng xã hội qua không gian kiến trúc. Người bản xứ được quy định sống trong các khu phố thương mại với nhà liền kề; tầng lớp công chức và tư sản mới nổi thì ở các khu biệt thự kiểu Âu mái bằng hoặc kiểu Á mái ngói; còn giới thượng lưu, quan chức Pháp được bố trí tại những khu biệt thự rộng rãi, biệt lập. Kiến trúc đô thị vì thế trở thành tấm gương phản chiếu sự phân biệt giai cấp và quyền lực trong xã hội thuộc địa.

Một số thành phố thời thuộc địa đã có hệ thống cống ngầm, nhưng nước thải thường được xả trực tiếp ra những ao hồ ô nhiễm nằm giữa hoặc xung quanh đô thị. Quy định xây dựng thể hiện sự phân biệt rõ rệt: tại các khu người bản xứ, mật độ cho phép có thể lên tới 50–60%, thậm chí 100%; trong khi ở khu vực dành cho quan chức thực dân và giới tư sản mại bản, mật độ chỉ khoảng 20%. Điều kiện vệ sinh kém khiến dịch bệnh, từ tả cho đến nhiều bệnh đường ruột liên tục đe dọa đời sống đô thị. Nghĩa trang thậm chí được đặt ngay trong trung tâm thành phố, thay vì công viên công cộng, ngay cả tại Hà Nội – nơi đặt bộ máy cai trị đầu não của Pháp.

Về mặt cảnh quan, một số công sở được xây dựng theo phong cách kiến trúc châu Âu, xa lạ với bối cảnh địa phương. Sự đối lập ấy càng nổi bật khi đặt cạnh những dãy nhà chật hẹp, san sát, thiếu cây xanh của cư dân bản xứ. Tất cả làm hiện rõ đặc trưng thuộc địa của các đô thị Việt Nam dưới thời Pháp: sự pha trộn gượng ép giữa hình thức kiến trúc xa lạ và đời sống đô thị nghèo nàn, bất bình đẳng.

Ở Hà Nội, dần dần hình thành những khu dành riêng cho tầng lớp thống trị, với đường phố rộng rãi, nhiều cây xanh, có cổng ra vào và hệ thống nước máy. Trong khi đó, khu 36 phố phường hầu như không thay đổi, ngoại trừ việc một số mặt tiền nhà được nâng tầng sau khi bãi bỏ luật lệ thời Minh Mạng và một vài tuyến phố được mở rộng. Suốt hơn nửa thế kỷ dưới ách thực dân, khu phố cổ vẫn không có hệ thống cống ngầm, vẫn dùng nhà xí và thùng rác công cộng, mật độ xây dựng ngày càng dày đặc, có nơi lên tới 100%. Trong một đất nước nhiệt đới, nơi chỉ cần cắm một cành cây xuống đất là có thể mọc thành rừng, thì vườn hoa trong đô thị lại trở thành điều hiếm hoi.

Ở các thị trấn tỉnh lỵ, hầu như không có nhà hát hay công trình phúc lợi công cộng. Chỉ vài đô thị trung tâm của bộ máy cai trị, như Hà Nội và Sài Gòn, mới có nhà hát để phục vụ nhu cầu giải trí của giới thực dân. Hoạt động buôn bán phát triển kéo theo sự nổi lên của tầng lớp mại bản và tiểu thương, chuyên cung cấp hàng xa xỉ nhập từ châu Âu. Một số khu phố nhỏ mới được xây dựng, có điện chiếu sáng, thậm chí có nước máy. Năm 1899, xe điện xuất hiện tại Hà Nội, chạy qua những con phố chật hẹp đông đúc để khai thác lợi nhuận cao. Sài Gòn là thành phố thứ hai có xe điện, nhưng hệ thống chỉ dài vài kilômét, nối trung tâm với Chợ Lớn.

Hải Phòng, dù là cảng mới thành lập, sau gần một thế kỷ vẫn chỉ có vài nhà kho dọc bến sông, một số phố của thương nhân Hoa kiều và những cửa hàng nhỏ của giới buôn bản xứ. Sài Gòn phát triển nhiều hơn, song chủ yếu vẫn là nơi tập trung các hãng buôn và ngân hàng ngoại quốc, trong khi Chợ Lớn phồn thịnh nhờ hoạt động của thương nhân Hoa kiều. Nam Định nổi bật với nhà máy dệt và kéo sợi ngay giữa thành phố, nhưng hầu như không có khu ở cho công nhân. Lực lượng lao động rẻ mạt được tuyển từ nông thôn, phải sống chen chúc trong những túp lều tranh ở làng ven đô hoặc trong các dãy nhà tập thể kiểu trại lính như ở Hòn Gai, làm việc kiệt sức từ 10 đến 15 giờ mỗi ngày.

Diện mạo đô thị Việt Nam dưới ách thực dân Pháp được nhận diện qua vài đường phố kẻ ô, một số khu phố thương mại, những trụ sở hành chính và các biệt thự của quan chức. Thiên nhiên phần nào làm dịu đi sự khắc nghiệt, khi hàng cây xanh ven đường che phủ vẻ nghèo nàn và lạc hậu vốn hiện hữu trong các thành phố thuộc địa.

Phủ Chủ tịch tại Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Dân số đô thị tuy có tăng lên đôi chút nhờ bộ máy cai trị và sự xuất hiện lẻ tẻ của vài nhà máy, xưởng thủ công, nhưng tuyệt đại đa số người Việt vẫn sống ở nông thôn, gắn bó với nghề nông. Nông nghiệp vẫn lạc hậu, con trâu kéo cày như hàng thế kỷ trước, trong khi người nông dân chịu hai tầng áp bức – phong kiến và thực dân – phải đối mặt thường xuyên với đói kém, lũ lụt, khiến họ không còn khả năng tích lũy để xây dựng nhà cửa khang trang. Ở nông thôn, ngoài việc trùng tu hoặc dựng mới một vài ngôi đình, chùa nhỏ, hoạt động xây dựng hầu như ngày càng nghèo nàn. Một số quan lại, địa chủ chỉ lo lập ấp, đào hào chống lại phong trào nông dân nổi dậy, cũng không xây dựng gì đáng kể ngoài những bức tường gạch cao có chòi canh. Nhà ở của trung nông vẫn giữ mẫu ba gian truyền thống với bàn thờ tổ tiên ở gian giữa. Còn người nghèo thì chỉ có một túp lều tranh đơn sơ, không cửa, với chiếc chõng tre hay cái phản cũ là toàn bộ gia sản.

Nhà thờ lớn Hà Nội.
Ảnh: TTH
Nhà thờ lớn Nam Định.
Ảnh: Triệu Chiến

Trong khi đó, ở những vùng Công giáo phát triển mạnh, nhà thờ lại mọc lên dày đặc, trở thành những công trình kiến trúc kiên cố nhất. Giữa đồng ruộng, những tháp chuông cao nặng, xây gạch và trang trí công phu, vươn lên như những dấu ấn xa lạ trong cảnh quan làng quê Việt. Tay nghề tinh xảo của thợ xây được huy động bởi niềm mộ đạo, nhưng cũng gắn với áp lực của nghèo đói. Những nhà thờ này thường mô phỏng kiến trúc phương Tây – từ kiểu Gothic Pháp, Tây Ban Nha cho tới Ý – chủ yếu nhấn mạnh hình thức bên ngoài, đặc biệt là dáng vút cao của tháp chuông, nhằm khẳng định uy quyền tinh thần. Bên trong, không gian chỉ đơn giản là nơi đặt bàn thờ và chỗ giáo dân hành lễ. Bóng dáng của kiến trúc truyền thống Việt hầu như biến mất. Giữa lũy tre xanh quen thuộc, những tháp chuông xám ngắt trỗi lên, nhiều nơi còn bị biến thành pháo đài trong tay thực dân – từ công cụ thống trị tinh thần trở thành cả pháo lũy quân sự.

Kiến trúc ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa gắn chặt với các chương trình khai thác của thực dân Pháp trải dài từ Bắc đến Trung và Nam Kỳ. Nếu các giáo sĩ Thiên Chúa giáo người Pháp đã đi trước, đóng vai trò mở đường cho công cuộc xâm lược, thì những nhà thờ kiên cố chỉ xuất hiện sau khi hệ thống thành quách kiểu Vauban đã được dựng lên ở nhiều nơi. Những công trình này, từ thành lũy đến nhà thờ, phản ánh rõ cách thực dân Pháp vừa củng cố quyền lực quân sự, vừa dần dần thiết lập một diện mạo kiến trúc mới trên đất Việt.

Ngay từ năm 1790, khi còn trong cuộc chiến giành lại quyền lực, Nguyễn Ánh đã nhờ cậy đến Victor Olivier de Puymanel, một tay chân thân cận của giáo sĩ d’Adran thiết kế và xây dựng thành Sài Gòn theo kiểu Vauban, với tám góc thành đặt trên khu đất cao ven sông Đồng Nai. Đến năm 1834, sau cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng cho phá bỏ thành cũ vì cho rằng quy mô quá lớn, khó phòng thủ, và cho xây một thành mới hình vuông ở phía tây bắc. Từ đó, mô hình thành Vauban tiếp tục được nhân rộng ra nhiều tỉnh thành khác. Có thể nói, trước khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ chính thức trên toàn lãnh thổ, dấu ấn kiến trúc Pháp đã hiện diện tại hầu hết các đô thị Việt Nam như một “nội ứng” được chuẩn bị từ trước.

Trong những năm đầu chiếm đóng, các trụ sở hành chính và thương mại của Pháp còn khá khiêm tốn: chỉ là những ngôi nhà một tầng, xây gạch, có hành lang bao quanh để chống nóng. Kiến trúc đơn giản với những vòm cuốn bằng gạch, cửa chớp gỗ che phần trên – một giải pháp thích nghi với khí hậu nhiệt đới. Một số công trình theo kiểu này vẫn còn lại ở Hà Nội, như các dãy nhà từng là doanh trại lính (nay là Bệnh viện 108) hay trụ sở đầu tiên của chính quyền Pháp cuối thế kỷ XIX.

Cùng thời điểm đó, các tu sĩ Thiên Chúa giáo lại có điều kiện xây dựng những nhà thờ lớn hơn, vững chắc hơn. Nhờ tiềm lực kinh tế dồi dào, họ nắm giữ nhiều đất đai – chỉ riêng Hội Truyền giáo La Sainte Mission Apostolique ở Nam Kỳ đã sở hữu tới một phần năm diện tích ruộng đất trong vùng. Dù không hề có trong Thánh kinh, việc chiếm đoạt này được thực hiện chủ yếu thông qua cho vay nặng lãi, biến tín đồ nghèo thành con nợ, và từ đó mở rộng quỹ đất của nhà thờ.

Nhà thờ Lớn Hà Nội được xây dựng năm 1884 trên nền chùa Báo Thiên cổ kính đã bị phá bỏ. Công trình có hai hàng cột, bên trong trang trí đơn giản. Mặt tiền gồm hai tháp chuông với năm tầng cửa cuốn hình lá đề, bốn góc bố trí trụ chống bậc thang, tạo nên hình khối khá thô cứng. Do nằm cuối một phố ngắn, khối kiến trúc lớn này không dễ nhìn thấy toàn cảnh, dù chiếm trọn khu đất cao. Ngược lại, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, khánh thành năm 1880, được xây bằng đá và gạch đỏ trần, cũng có hai tháp chuông dưới mái nhọn, tọa lạc trên khu đất rộng ở đầu phố Catinat (nay là đường Đồng Khởi), nối với đại lộ Norodom (từng có tên là đại lộ 30/4, nay là đường Lê Duẩn). Nhà nghiên cứu Hilda Arnoid từng ghi nhận: người ta bàn tán nhiều về công trình này, có người cho rằng tỷ lệ hình khối vụn vặt, người khác lại phê phán kiểu thức chưa đủ “thuộc địa”.

Sang đầu thế kỷ XX, khi nền cai trị của Pháp tại Đông Dương đã ổn định, chính quyền thực dân bắt đầu sử dụng kiến trúc như một công cụ tuyên truyền. Các cuộc đấu xảo ở Hà Nội ra đời, kéo theo việc xây dựng Nhà chính của Khu Đấu xảo – công trình mang bóng dáng Petit Palais do Charles Girault thiết kế cho triển lãm Paris 1900, với bố cục ba khối nhô ra phía trước, mái Mansard lợp đá phiến, hàng cột kết nối mặt đứng. Tòa nhà này sau được dùng làm bảo tàng, rồi bị bom Nhật phá hủy trong Thế chiến II.

Cung Đấu xảo Hà Nội. “Đấu xảo” là một từ Hán – Việt, có thể hiểu là “hội thi đấu về sự tinh xảo”. Đây là cách gọi cũ của hoạt động hội chợ, triển lãm. Nguồn: Gallica.bnf.fr

Cùng thời gian, mạng lưới hạ tầng giao thông cũng được mở rộng. Năm 1902, Hà Nội chứng kiến sự ra đời của trụ sở Công ty xe lửa Đông Dương – Vân Nam và Ga Hà Nội. Đây là những công trình đồ sộ về khối tích và chiều cao, với mái Mansard lợp ngói thạch bản chở từ Pháp sang. Bên cạnh đó, Tòa án Hà Nội và Phủ Thống sứ (nay là Nhà khách Chính phủ) mang vẻ trang nghiêm, phù hợp chức năng cai trị, dù mái đá đen và cửa sổ lucarne hoàn toàn xa lạ với khí hậu nhiệt đới. Các chi tiết cột Doric và Ionic Hy – La xuất hiện lần đầu tại Việt Nam trên mặt đứng Tòa án Hà Nội và Viện Radium.

Hình ảnh tư liệu về Ga Hàng Cỏ những năm 1900. Ảnh: sưu tầm

Nhà hát Lớn Hà Nội, với những mô-típ hoa dây, hoa lá trang trí diêm dúa, thể hiện các thức Ionic và Composite nhưng thiếu sự tinh tế, cho thấy ảnh hưởng mạnh từ kiến trúc tân cổ điển Pháp. Trong khi đó, Tòa Đốc lý Sài Gòn (Hôtel de Ville, 1898–1908, Gardès thiết kế) lại gây nhiều tranh cãi. Một tác giả Pháp từng viết: “Ngôi nhà chất đầy tượng người trần, mặt nạ, vòng hoa. Tất cả những hoa văn thạch cao từng làm tổ tiên ta say mê nay xuất hiện giữa thế kỷ XX, ở xứ Nam Kỳ nhiệt đới, như một phép lạ nhưng cũng là một trò đùa. Nội thất còn kỳ lạ hơn ngoại thất: toàn bộ các bức tường phủ kín mô-típ trang trí, khác nhau ở mỗi phòng – từ vòng hoa kiểu Louis XV đến các bố cục hình học Art Nouveau.”

Nhà hát lớn Hà Nội. Ảnh Triệu Chiến

Mặc dù kiến trúc hiện đại với những con sơn thanh mảnh thường chỉ mang tính hình thức, chợ Đồng Xuân – với mái che phủ trên diện tích rộng lớn – lại cho thấy một nỗ lực thích nghi với khí hậu địa phương qua việc sử dụng các mảng tường thông gió (claustras) lớn ở hai đầu hồi. Đây cũng là giai đoạn thịnh vượng của kết cấu sắt: từ mái vòm, vì kèo, dầm sàn cho đến những công trình cầu quy mô, tiêu biểu nhất là cầu Doumer (nay là cầu Long Biên) bắc qua sông Hồng, chiếc cầu dài nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Những công trình này thể hiện tay nghề khéo léo của thợ Việt: tuy không còn chạm rồng phượng, họ vẫn tinh tế trong cách tạo gờ chỉ kiến trúc hiện đại hay xử lý đầu cột Ionic, Composite phức tạp. Quan trọng hơn, đó là dấu hiệu cho thấy tinh thần tiếp thu kỹ thuật mới của châu Âu, đặc biệt trong xây dựng bằng sắt.

Cầu Doumer (nay là cầu Long Biên). Ảnh: Sưu tầm

Cầu Long Biên là minh chứng rõ rệt. Trong bối cảnh châu Âu sau cầu sắt đầu tiên qua sông Rhine (1866), cầu Forth qua Scotland (1889) và cầu cạn Garabit (Viaduc de Garabit, 1902), người Pháp đã xây dựng ở Hà Nội một cây cầu thép kiểu cantilever dài 1.689 mét, với các nhịp rộng tới 60 mét. Cùng thời, Việt Nam còn có cầu Tràng Tiền bắc qua sông Hương (1900), cầu Bình Lợi qua sông Bến Nghé (1902), cùng nhiều cây cầu khác, cho thấy mức độ lan tỏa của kỹ thuật kết cấu sắt.

Trong các công trình đó, nhiều giải pháp mới được áp dụng: vì kèo bằng thép, sàn nhà bằng dầm chữ I (IPN) xen ba hàng gạch rỗng xếp vòm, cửa chớp gỗ giúp thông gió. Những chi tiết này, tuy còn sơ khai, đã phần nào đáp ứng yêu cầu chống nóng trong bối cảnh kỹ thuật và vật liệu xây dựng còn hạn chế. Chúng đánh dấu bước phát triển quan trọng của kiến trúc Việt Nam, nhưng hình thức xa lạ khiến khó được người dân đón nhận.

Đặc biệt, dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước như Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, tinh thần dân tộc trỗi dậy buộc chính quyền thực dân phải chú ý hơn đến hình thức kiến trúc. Từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, kiến trúc thuộc địa dần thay đổi: các kiến trúc sư ngoại quốc, với sự hiểu biết nông cạn và mang tính hình thức về kiến trúc dân tộc, đã loại bỏ dần chi tiết mô-đéc châu Âu, thay vào đó là những cột giả (pilastre), hoa văn cánh sen lấy từ chùa Việt, chữ triện và họa tiết hình học gợi nhắc nghệ thuật triều Nguyễn. Tại Trường Đại học Đông Dương, những mái chồng lớp được thêm vào với mục đích tạo màu sắc “dân tộc”, nhưng vẫn phô bày tính chất lai ghép gượng ép. Bản vẽ ban đầu của tòa tháp giữa mặt đứng vốn có hình đầu đạn phương Tây, về sau được thay thế bằng lầu vuông cắt góc, lợp nhiều mái – một nỗ lực đưa yếu tố bản địa vào công trình mang tính biểu tượng của chính quyền thuộc địa.

Trường Đại học Đông Dương xưa, nay là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Trong nỗ lực “bản địa hóa” kiến trúc, các kiến trúc sư Pháp đã khai thác triệt để hình ảnh quen thuộc của mái ngói. Ở Bảo tàng Sài Gòn và Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội), hệ mái được biến hóa từ nhỏ đến lớn, từ mái giả trên cửa sổ cho tới mái chóp nhọn gợi liên tưởng đến các lầu trong vườn cung điện Bắc Kinh. Khắp nơi đều là mái – nhiều đến mức gây ấn tượng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Việc bố trí các mái nhỏ ngang dọc phía trên cửa cuốn ở lối vào khiến khối sảnh chính tám cạnh trở nên bề thế, tạo cảm giác đồ sộ cho toàn bộ công trình.

Tuy vậy, sự phô diễn ấy lại thiên về hình thức. Nhiều chi tiết chỉ là mô phỏng: con sơn không thực sự chịu lực, đầu hồi bê tông giả gỗ gợi hình ảnh vì kèo, trồng rường của kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Bề ngoài to lớn nhưng không tương xứng với không gian bên trong, để lộ rõ tính chất hình thức chủ nghĩa – nơi phần lớn kinh phí xây dựng được dồn cho hệ mái. Tương tự, Câu lạc bộ Đoàn Kết (trước là Câu lạc bộ Cựu Chiến binh), tuy diện tích nhỏ, cũng cố gắng phô bày nhiều tầng mái chồng chất để tạo vẻ bề thế.

Một số công trình được xây dựng sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất cho thấy sự điều chỉnh tích cực hơn. Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước là Sở Tài chính, do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế) hay Viện Vi trùng học (nay là Viện Pasteur Hà Nội, kiến trúc sư R. Roger) tuy vẫn còn mang nhiều yếu tố lai căng, nhưng đã thể hiện rõ ý đồ thích ứng với khí hậu nhiệt đới. Mái hiên trên cửa sổ thực sự phát huy tác dụng: che nắng gắt, cản mưa hắt, giúp không gian bên trong mát mẻ hơn. Các lỗ thông gió bố trí sát sàn gác và dưới trần cũng góp phần điều hòa khí hậu nóng ẩm mùa hè Hà Nội. Đây là những cải tiến có ý nghĩa, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình tìm kiếm ngôn ngữ kiến trúc phù hợp hơn với bối cảnh bản địa.

Một mặt, cách bố trí cửa và cửa sổ tại các phòng dọc hai bên hành lang đã được xử lý khéo léo, bảo đảm thông gió chéo phù hợp với điều kiện gió mùa ở Việt Nam. Ở trụ sở Sở Tài chính (nay là Bộ Ngoại giao), tuy vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng phần kiến trúc nội thất – đặc biệt xung quanh cầu thang chính – đã cho thấy nỗ lực tổ chức không gian trang nhã và giản lược. Hệ con sơn và mái, tuy vẫn xuất hiện nhiều, song khác với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở chỗ chúng thực sự đảm nhận chức năng kết cấu và che chắn mưa nắng.

Dù việc pha trộn yếu tố kiến trúc dân tộc chưa hoàn toàn tinh tế, trụ sở Bộ Ngoại giao và Viện Vi trùng học vẫn mang lại giá trị hiện thực nhất định, đánh dấu một bước tiến trong các công trình xây dựng sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Giai đoạn 1925–1930, Hà Nội chứng kiến sự xuất hiện của loạt công trình mới: trụ sở Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), trụ sở Pháp Hoa Ngân hàng (nay là Bộ Ngoại thương), cùng nhiều công trình của giới tài chính Pháp tại các đô thị lớn, đặc biệt trên bến Quai Belgique ở Sài Gòn.

Ngân hàng Đông Dương xưa nay nhà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Hà Nội. Ảnh: Triệu Chiến

Tiêu biểu nhất là trụ sở Ngân hàng Đông Dương tại Hà Nội, với hình thức kiến trúc hiện đại, đơn giản, vững chắc, loại bỏ hẳn sự diêm dúa trang trí. Công trình này đã ứng dụng kết cấu bê tông cốt thép: mái bằng và khung chịu lực được xây dựng bằng vật liệu mới, song tường gạch dày vẫn giữ vai trò quan trọng trong kết cấu, thậm chí che giấu cột bê tông bên trong. Vữa vôi truyền thống được thay thế bằng bê tông trộn xi măng và sỏi nhỏ, bề mặt hoàn thiện bằng đá rửa màu, tuy giá thành cao nhưng đem lại sự phong phú về chất liệu và màu sắc bền vững.

Dù một số công trình vẫn còn thiên về vay mượn hình thức cổ điển, thậm chí lấy cảm hứng từ kiến trúc Khmer – như tòa nhà ngân hàng ở Quai Belgique, Sài Gòn – thì giai đoạn này vẫn đánh dấu một bước phát triển mới: kiến trúc Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ của bê tông cốt thép, với những công trình mang diện mạo hiện đại, kiên cố và thực dụng hơn.

Hệ kết cấu bê tông cốt thép theo phương pháp của kỹ sư Pháp François Hennebique được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, đặc biệt trong thiết kế dầm sàn. Một đặc trưng kỹ thuật là bố trí hai đôi cốt thép: một đôi đặt sát mặt dưới dầm, đôi còn lại khi đi qua đầu cột hoặc dầm chính (vị trí gối tựa) được uốn cong lên, nằm sát mặt trên và kèm thêm một đôi thép ngắn khác. Cách đặt thép này là kết quả của quá trình tính toán chính xác về lực kéo – nén, nhằm tối ưu hóa khả năng chịu lực.

Dấu ấn kết cấu này còn thể hiện trực tiếp trong không gian nội thất: các dầm lớn nhỏ kết hợp tạo thành hệ ô vuông (caisson) trên trần nhà. Bê tông cốt thép theo hệ khung cũng được sử dụng trong nhiều công trình công nghiệp, đặc biệt là các kho xưởng đường sắt ở Hà Nội, Vinh và Sài Gòn. Tại Viện Pasteur, những vì kèo bê tông cốt thép đã được áp dụng cho kết cấu mái.

Các dạng sàn rỗng kiểu Zoellner và Rella cũng phổ biến, dựa trên vật liệu đất nung rỗng do Công ty Gạch ngói Đông Dương sản xuất. Sàn được cấu tạo từ những ống đất nung rỗng đặt xen kẽ, đổ bê tông tại chỗ, đồng thời gia cố bằng các thanh thép tròn đặt sát mặt dưới, cách nhau khoảng 50 cm. Giải pháp này đặc biệt thông dụng cho sàn nhà, dầm nhà, lanh tô và các phần hiên đua (auvent).

Từ đây, bê tông cốt thép nhanh chóng trở thành vật liệu phổ biến trong xây dựng biệt thự. Phần lớn loại hình này do các công ty thầu khoán Pháp và một số công ty khác thi công cho giới tư bản và quan chức thực dân. Cùng lúc, tầng lớp tư sản và mại bản Việt Nam – nổi lên từ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất – cũng bắt đầu xây dựng những cơ sở kinh doanh quy mô nhỏ, cũng như sở hữu một số biệt thự tại đô thị và đồn điền riêng.

Mãi đến thập niên 1930, Việt Nam mới xuất hiện những kiến trúc sư đầu tiên, được đào tạo tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nơi mở khoa Kiến trúc từ năm 1924. Việc thành lập khoa này một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu tuyển dụng viên chức kỹ thuật phục vụ bộ máy công chính thuộc địa, nhất là trong bối cảnh chính trị mới sau Chiến tranh Thế giới II, khi thực dân Pháp muốn hạn chế việc du học tại chính quốc; mặt khác, đây cũng là cách để Pháp gia tăng ảnh hưởng, cạnh tranh với Nhật Bản trong cuộc đối đầu chính trị tại Đông Dương. Hằng năm, khoa Kiến trúc đào tạo 4–5 kiến trúc sư Việt Nam, chủ yếu để phục vụ các Sở Lục lộ của chính quyền bảo hộ.

Tuy nhiên, nhu cầu thiết kế và xây dựng bên ngoài hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt từ giới tư sản và mại bản bản xứ có vốn liếng, cùng với khát vọng nghề nghiệp của một số cá nhân, đã thúc đẩy sự ra đời của các văn phòng thiết kế tư nhân do người Việt điều hành ở Hà Nội và Sài Gòn, bất chấp sự dòm ngó và kiểm soát chặt chẽ của chính quyền thực dân.

Từ đó, nhiều công trình dân dụng chủ yếu là nhà ở và cửa hàng nhỏ bắt đầu do kiến trúc sư Việt Nam thiết kế. Các kiểu nhà này phản ánh thị hiếu của tầng lớp tư sản mới nổi: sử dụng kỹ thuật bê tông cốt thép, với những đặc trưng dễ nhận biết như mái hiên (auvent), cầu thang gắn claustras thông gió, đôi khi kết hợp những họa tiết trang trí nghèo nàn theo dạng hình học, vốn thường thấy trên các tạp chí kiến trúc Pháp đương thời.

Khi phát xít Nhật đặt chân lên Đông Dương, chính quyền Pháp lại đẩy mạnh các chiêu trò tuyên truyền chính trị để giành ảnh hưởng. Trong chương trình đào tạo kiến trúc, các tài liệu nghiên cứu về kiến trúc Trung Quốc được đưa vào thay thế cho việc tìm hiểu kiến trúc dân tộc, càng làm lệch hướng hành trình tìm kiếm bản sắc của thế hệ kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên.

Một số công trình thời kỳ này, như Câu lạc bộ Thủy quân (nay là trụ sở Ủy ban Thể dục Thể thao Trung ương, do kiến trúc sư Kruze thiết kế), đã sử dụng các chi tiết trang trí gợi nhớ cung điện Bắc Kinh, với ý đồ coi đó là sự “phát huy kiến trúc dân tộc”. Quan điểm của giới kiến trúc Pháp khi ấy cho rằng ở Việt Nam không có một nền kiến trúc riêng biệt, mà chỉ có biến thể của kiến trúc Việt–Hán (sino-annamite).

Nhà số 36 phố Trần Phú, Hà Nội từng là Câu lạc bộ Thủy quân. Ảnh: Sưu tầm

Dẫu thực dân tìm cách phủ nhận giá trị văn hóa dân tộc, một số sinh viên và kiến trúc sư Việt Nam vẫn âm thầm hướng tới việc tìm hiểu truyền thống bản địa. Dưới ảnh hưởng của phong trào dân chủ và phong trào Đông Dương Đại hội do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, tinh thần dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ và báo chí tiến bộ tích cực cổ vũ. Sự kiện ngày 27-2-1937, toàn thể sinh viên Trường Mỹ thuật bãi khóa phản đối thái độ khinh miệt của giám đốc, đã phản ánh tinh thần đấu tranh ấy. Các phong trào chính trị – xã hội sôi động gián tiếp tạo tiền đề cho xu hướng phát huy yếu tố dân tộc trong sáng tác kiến trúc.

Mặc dù trong nhà trường, việc nghiên cứu kiến trúc vẫn bị lái chệch sang mô hình Trung Hoa, nhưng thực tế đã có những thử nghiệm ở Hà Nội. Nhà giải khát bên hồ Hoàn Kiếm (Võ Đức Diễn và Nguyễn Xuân Tùng thiết kế) hay biệt thự số 84 phố Nguyễn Du (do một sinh viên kiến trúc thiết kế từ khi còn đang học năm thứ ba) đều mang những dấu ấn tìm tòi. Hình thức lầu vuông, lan can hay chi tiết cửa vòm đều phảng phất bóng dáng kiến trúc phương Đông. Một số công trình khác như biệt thự “L.Đ.H” ở phố Hàng Đẫy (Nguyễn Gia Đức) hay ngôi nhà số 17 phố Thuyền Quang (Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp và Nguyễn Gia Đức cùng thiết kế) cũng đã bước đầu khai thác chi tiết trang trí và hình thức lấy cảm hứng từ kiến trúc dân gian Việt Nam.

Xu hướng tiến bộ ấy còn ở mức sơ khai, nhưng chính là kết quả trực tiếp từ phong trào đấu tranh dân tộc trong những năm 1930, dẫn tới sự ra đời của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” và đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám 1945, khi lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên tháp Rùa giữa hồ Hoàn Kiếm.

Tổng kết lại, qua hơn nửa thế kỷ đô hộ, thực dân Pháp không ngừng phá hủy di sản kiến trúc truyền thống, biến đô thị Việt Nam thành những thành phố thuộc địa phục vụ chính sách bóc lột và tuyên truyền văn hóa ngoại lai. Dẫu có ghi dấu một số bước tiến về kỹ thuật xây dựng do ảnh hưởng của tư bản ngoại quốc và sự hình thành tầng lớp tư sản bản xứ, số lượng công trình giá trị vẫn vô cùng ít ỏi. Các thành phố thuộc địa, xét cho cùng, chỉ hiện diện như những khu “phố Tây” phục vụ giới cầm quyền và tư bản, trong khi đa số người lao động Việt Nam vẫn sống trong những khu nhà chật hẹp, tăm tối. Ở nông thôn, tình trạng bóc lột càng khiến kiến trúc đình làng, nhà ở dậm chân tại chỗ như hàng trăm năm trước: tre gỗ, mái tranh, chỉ hiếm hoi vài làng giàu hơn mới có thể xây nhà gạch ngói nhờ nghề thủ công hoặc buôn bán.

Do chính sách kìm hãm của thực dân, kinh tế và văn hóa Việt Nam bị định hướng phục vụ cho mục tiêu khai thác tài nguyên và bóc lột sức lao động. Hệ quả là nền kiến trúc nước ta rơi vào tình trạng lạc hậu, tụt xa hàng trăm năm so với tiến trình phát triển của kiến trúc thế giới. Di sản văn hóa dân tộc trong thời kỳ này vừa bị khinh miệt, vừa bị tàn phá nặng nề.


Tác giả
Ngô Huy Quỳnh

Tổng hợp & Biên tập
Anh Nguyên