Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa và nghệ thuật của đất nước. Với những bộ sưu tập đa dạng về thể loại và chất liệu, bảo tàng trở thành một “kho tư liệu sống”, phản ánh tiến trình mỹ thuật Việt Nam qua hàng nghìn năm.
MỘT KHO TÀNG NGHỆ THUẬT NHIỀU LỚP LANG
Hệ thống trưng bày được mở đầu từ thời tiền sử, với rìu đá, tượng nhỏ, hình khắc hang động và đồ gốm thô sơ. Từ thời kỳ đồ đồng, những trống đồng, thạp đồng, rìu đồng, nhạc cụ… đã cho thấy thành tựu rực rỡ của nghệ thuật tạo hình cổ đại. Bước sang thế kỷ 11, dưới các triều đại phong kiến, mỹ thuật Việt Nam khẳng định bản sắc độc lập qua kiến trúc, tượng Phật, tượng thú, chạm khắc rồng và hoa văn đá.
Từ thế kỷ 16 đến 19, dù đất nước nhiều biến động, nghệ thuật đình làng và chùa chiền vẫn phát triển mạnh, để lại những tác phẩm điêu khắc dân gian sâu đậm tính bản địa. Song song đó là sự hình thành các dòng tranh dân gian như Đông Hồ, Hàng Trống và tranh thờ miền núi. Sang thế kỷ 19 và đầu 20, cùng với các công trình kiến trúc ở Huế, nhiều hiện vật gỗ, gốm, đồng, sắt tráng men đã phản ánh diện mạo nghệ thuật của giai đoạn này.
Đầu thế kỷ 20, mỹ thuật Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, đánh dấu bằng sự ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925). Các tác phẩm từ giai đoạn 1925–1945 hiện được lưu giữ tại bảo tàng, tạo nền tảng cho mỹ thuật hiện đại. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều họa sĩ tham gia kháng chiến, để lại những ký họa, tranh in đá, tranh tuyên truyền… phản ánh một thời kỳ đầy thử thách. Từ kháng chiến chống Mỹ đến sau 1975, nghệ sĩ Việt Nam vừa khai thác đề tài lịch sử, vừa hướng đến cuộc sống đương đại, tạo nên nguồn tác phẩm phong phú mà bảo tàng tiếp tục bổ sung.
NGÔI NHÀ – TỪ KÝ TÚC XÁ PHÁP ĐẾN BẢO TÀNG QUỐC GIA
Tòa nhà chính của bảo tàng vốn được xây dựng trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đây là một biệt thự ba tầng, diện tích 1.200 m², nằm trước vườn hoa hình bán nguyệt, từng là ký túc xá do tổ chức Gia đình Jeanne d’Arc thuộc Giáo hội Công giáo quản lý, dành cho con gái quan chức Pháp ở Đông Dương. Sau Cách mạng tháng Tám, công trình được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau.
Năm 1962, Nhà nước quyết định chuyển giao ngôi nhà cho Bộ Văn hóa, cải tạo thành bảo tàng chuyên biệt về mỹ thuật. Viện Mỹ thuật – Mỹ nghệ ra đời cùng lúc, vừa chuẩn bị nội dung trưng bày, vừa cải tạo công trình từ kiến trúc phương Tây sang phù hợp với chức năng mới. Sau gần bốn năm, ngày 26 tháng 6 năm 1966, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chính thức khai trương, dưới sự chỉ đạo của cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cùng một tập thể cán bộ trẻ đầy nhiệt huyết.
HỆ THỐNG TRƯNG BÀY MỸ THUẬT & NGHỆ THUẬT
Ngay từ buổi đầu, nội dung trưng bày được chia thành các mảng lớn: mỹ thuật các dân tộc, mỹ thuật tiền sử và đồ đồng, mỹ thuật phong kiến, mỹ thuật dân gian và thủ công, mỹ thuật cận – hiện đại. Cách trưng bày kết hợp theo dòng lịch sử và theo chất liệu, giúp người xem có thể hình dung một cách khái quát nhưng đầy đủ về mỹ thuật Việt Nam.
Sau năm 1971, bảo tàng được công nhận là viện bảo tàng quốc gia. Ngoài trưng bày cố định, bảo tàng tổ chức các triển lãm lưu động tại nhiều địa phương, đặc biệt sau ngày đất nước thống nhất. Sau 1972, cơ sở vật chất được mở rộng, với tòa nhà ba tầng mới, hàng rào, cổng, vườn hoa, cùng hệ thống điện và an ninh bảo quản hiện đại. Xưởng phục chế ra đời, có khả năng xử lý nhiều chất liệu khác nhau, phục vụ cả trong nước và hợp tác quốc tế.
Mỗi năm, bảo tàng còn tổ chức nhiều trưng bày chuyên đề tại không gian tầng trệt rộng 300 m². Cảnh quan vườn hoa trước tòa nhà cũng được chăm chút, tạo thành một phần trải nghiệm quen thuộc của du khách.
Dù còn trẻ so với chiều dài lịch sử nghệ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã để lại những dấu ấn quan trọng. Bảo tàng từng vinh dự đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều lãnh đạo cấp cao của đất nước, các nguyên thủ quốc tế và đông đảo công chúng. Năm 1983, Nhà nước quyết định mở rộng trưng bày thêm mỹ thuật thế giới, khẳng định vai trò kết nối giữa nghệ thuật dân tộc và nghệ thuật toàn cầu.
Ngày nay, bảo tàng tiếp tục thực hiện sứ mệnh gìn giữ, nghiên cứu và giới thiệu nghệ thuật Việt Nam, đồng thời trở thành điểm đến văn hóa quen thuộc của Hà Nội, nơi người yêu nghệ thuật có thể tìm thấy chiều sâu lịch sử, bản sắc dân tộc và sự tiếp nối trong sáng tạo đương đại.
Biên tập
Anh Nguyên
Ảnh
Triệu Chiến