Tại số 1 Tràng Tiền, Hà Nội, tòa nhà Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một minh chứng sống động cho phong cách Đông Dương – sự giao thoa giữa kiến trúc thuộc địa Pháp và bản sắc Á Đông. Được thiết kế để lưu giữ di sản, công trình này không chỉ là nơi bảo tồn ký ức lịch sử mà còn là một trường hợp điển hình về tái sử dụng thích ứng, nơi quyền lực thực dân được chuyển hóa thành biểu tượng quốc gia. Hơn chín thập kỷ tồn tại, tòa nhà kể câu chuyện về sự thương lượng giữa lịch sử, văn hóa và môi trường, mang đến bài học quý giá cho các kiến trúc sư về cách tái định nghĩa di sản trong bối cảnh đô thị hiện đại.
Tòa nhà ra đời trong bối cảnh Hà Nội được chọn làm thủ đô Liên bang Đông Dương đầu thế kỷ XX. Năm 1902, Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) lên kế hoạch xây dựng một bảo tàng để trưng bày di vật khảo cổ và nghệ thuật châu Á, từ Trung Quốc, Nhật Bản đến Campuchia và Myanmar. Đến năm 1925, dự án Bảo tàng Louis Finot được Toàn quyền Đông Dương phê duyệt, tọa lạc trên khu đất 1.835 m² phía sau Nhà hát Lớn, dọc bờ đê sông Hồng (nay là phố Trần Quang Khải). Thiết kế được giao cho hai kiến trúc sư Pháp: Ernest Hébrard – người tiên phong định hình phong cách Đông Dương – và Charles Batteur, thành viên EFEO.
Hébrard, nổi tiếng với tư duy đô thị và kiến trúc lai ghép, đã chủ động tích hợp hình thái Á Đông vào bố cục châu Âu, tạo nên một ngôn ngữ kiến trúc vừa đáp ứng khí hậu nhiệt đới, vừa phản ánh chiến lược văn hóa của thực dân Pháp. Công trình khởi công tháng 1/1926 dưới nhà thầu Aviat, nhưng do khủng hoảng kinh tế, dự án bị trì hoãn và chuyển cho nhà thầu địa phương Trịnh Quy Khang vào năm 1929. Tòa nhà hoàn thành và khánh thành ngày 17/3/1932, mang tên Louis Finot – Giám đốc đầu tiên của EFEO – với mục đích phô trương ảnh hưởng văn hóa Pháp tại Đông Dương.
Không gian trung tâm của tòa nhà xoay quanh sảnh bát giác rộng lớn, với mỗi cạnh dài 11m, lấy cảm hứng từ kiến trúc gỗ truyền thống Việt Nam như nhà bát giác. Sảnh thông tầng dẫn vào các phòng trưng bày hình chữ nhật kéo dài, tạo dòng chảy xuyên phòng mượt mà, kết nối các không gian chuyên đề một cách tự nhiên. Tầng trệt cao 2,5m được thiết kế làm kho lưu trữ và phục chế, đảm bảo cách nhiệt, cách âm và thông thoáng nhờ hệ thống cửa sổ lớn cùng khe thoát gió trên mái.
Hình khối công trình nổi bật với hệ mái chồng diêm ba lớp, sử dụng ngói âm dương và đầu đao cong, gợi liên tưởng đến kiến trúc chùa Keo (Thái Bình). Mái hiên rộng, đỡ bởi cột kép, được trang trí bằng các họa tiết cách điệu như văn kỷ hà, hoa sen và rồng, hòa quyện với frieze Art Deco châu Âu. Hệ thống cửa sổ lớn và lỗ thông gió trên mái không chỉ tạo điểm nhấn thẩm mỹ mà còn đảm bảo thông gió tự nhiên, chống ẩm mốc hiệu quả trong khí hậu Hà Nội.
Ánh sáng tự nhiên tràn ngập sảnh chính qua cửa kính bát giác, kết hợp với hệ thống cửa sổ và mái thoáng, mang lại không gian sáng rõ lý tưởng cho trưng bày hiện vật. Các chi tiết trang trí như lan can, con sơn và đấu củng mang đậm chất Á Đông, cân bằng khéo léo với đường nét thanh lịch của Art Deco, tạo nên sự hài hòa giữa hai nền văn hóa.
Công trình hòa mình vào cảnh quan với vườn hoa nhiệt đới và cây xanh bao quanh, như thể “mọc lên từ khối cây xanh”. Vị trí gần sông Hồng và Nhà hát Lớn càng tăng cường tính kết nối với bối cảnh đô thị, tạo nên một tổng thể gắn kết giữa kiến trúc và môi trường.
Phong cách Đông Dương của tòa nhà không chỉ là một biểu đạt mỹ học mà còn là chiến lược thích ứng thông minh, đáp ứng đồng thời nhu cầu trưng bày bảo tàng và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Sự kết hợp này đã tạo nên một di sản kiến trúc trường tồn, ảnh hưởng sâu rộng đến các công trình khu vực trong nhiều thập niên sau.
Sau Cách mạng tháng Tám, cơ sở vật chất và hiện vật được bàn giao cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn 1945-1946. Đến năm 1958, công trình chính thức trở thành Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tập trung vào lịch sử xã hội từ thời tiền sử đến hiện đại, mở cửa ngày 3/9/1958.
Quá trình chuyển đổi đòi hỏi bổ sung hiện vật và chỉnh lý nội dung, từ sưu tập ngoại lai sang câu chuyện lịch sử dân tộc. Tòa nhà trải qua nhiều đợt cải tạo (1958-1965, 1965-1975, 1975-1986, 1986-1997, 1998-nay), nhưng giữ nguyên hình thức kiến trúc gốc, thể hiện khả năng thích ứng vượt trội. Năm 2011, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam sáp nhập với Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (tại 216 Trần Quang Khải) để hình thành Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, mở rộng trưng bày với hơn 200.000 hiện vật, bao gồm nhiều bảo vật quốc gia.
Đối với các kiến trúc sư, tòa nhà tại số 1 Tràng Tiền là một nghiên cứu điển hình về tái sử dụng thích ứng. Từ một công trình mang dấu ấn thực dân, nó trở thành biểu tượng quốc gia mà không cần thay đổi cấu trúc gốc, minh chứng cho sức bền của thiết kế lai ghép Đông Dương. Cách mà Hébrard và Batteur tích hợp hình thái bản địa với chức năng châu Âu, từ mái chồng diêm đến hệ thống thông gió, gợi ý về việc thiết kế phải đáp ứng cả văn hóa và môi trường.
Tổng hợp & Biên tập
Anh Nguyên
Ảnh
Triệu Chiến