Còn có quan niệm tranh dân gian là một loại tranh vẽ hồn nhiên theo bản năng, vì các nghệ nhân không được đào tạo ở một xưởng, lớp, hoặc trường nào nên vẽ theo lối tùy tiện, thiếu phương pháp khoa học của nghệ thuật tạo hình (?). Cách thể hiện người, vật, cảnh không vẽ như thật, như cách vẽ của Tây Âu hay không có bút pháp tài tình của quốc họa Trung Quốc. Màu sắc chỉ là những màu sặc sỡ nguyên chất, không phải là một bảng màu tả chân một cách nhuần nhị, hiển hóa như bảng màu của Trung Quốc hay Nhật Bản cổ điển. Cách sắp xếp trong tranh cũng theo thể tùy tiện, thích gì vẽ nấy, thiếu khoa học về ánh sáng, thiếu định luật xa gần, diễn tả không gian, phối sắc và đặc điểm là vẽ người lại ngây ngô, đơn điệu, công thức.
Một số người chuyên nghiệp có xu hướng theo những trường phái hội họa hiện đại của Tây Âu thì xô vào khai thác, thưởng thức cái đẹp ngây ngô, ngộ nghĩnh, cho đấy là phong cách độc đáo của dân tộc, phù hợp với trào lưu hội họa mới. Một số người khác, thuộc về loại thời thượng, cũng đi tìm những tranh dân gian, cũng như đi lùng những đồ gốm cổ của ta đề bài trí chỗ ngồi chơi và cũng ca tụng hết mức tranh dân gian là đẹp lắm.
Nhưng lại có rất nhiều người trong quảng đại nhân dân quan tâm đến tranh dân gian muốn biết cái hay, cái đẹp của kho tàng quý báu đó và đã nêu ra nhiều câu hỏi: “Vẻ đẹp của tranh dân gian như thế nào? Tính chất nghệ thuật của tranh dân gian như thế nào? Có phải là cái đẹp bản năng, cái đẹp hồn nhiên không? Có phải là từ chỗ tinh thần tự ti dân tộc đến chỗ suy tôn quá mức tất cả những cái gì do ông cha để lại. Có vấn đề nghệ thuật cụ thể là tranh dân gian không?“
Đứng về mặt nghệ thuật dân tộc, chúng ta cần phải đánh giá đúng mức để rút ra những cái hay, cái đẹp và những điềm thiếu sót của ông cha ta dẻ chúng ta học tập và phát triển.
VỀ CÁI ĐẸP CỦA TRANH DÂN GIAN
Có thể nói, mỗi người có cái thích thú riêng về một vẻ đẹp theo tình cảm của mình. Có người ưa thích những màu sắc dịu dàng, ngược lại, có người lại thích những màu rực rỡ, lộng lẫy. Cũng như tôi thích những người có tầm vóc to khỏe, béo mập, anh lại thích những người có dáng thanh mảnh, dịu dàng. Có những điểm chúng ta chưa cùng thống nhất trên nhận thức và quan điểm như sự ưa thích về màu sắc và tầm vóc có khác nhau, nhưng tiêu chuẩn về thích có màu sắc và có sức khỏe chắc chắn là cùng thống nhất.
Tranh dân gian Việt Nam từ trong nhân dân lao động mà ra, nó phục vụ lại đắc lực, kịp thời, đúng lúc, đúng đối tượng từ lâu đời, nên nó được ưa thích và trở thành sự cần thiết trong sinh hoạt đời sống tinh thần, nhất là trong những ngày Tết. Cũng như chèo cổ, ca dao và những truyện cổ tích, truyện thơ như Kiều, Nhị Độ Mai, Thạch Sanh, tranh dân gian là một món ăn tinh thần của nhân dân lao động. Nó là ngọn bút hiện thực, trữ tình, hài hước, phê phán tế nhị, đả kích sâu sắc. Nó là chèo cổ bằng đường nét màu sắc, hình vẽ với vũ thuật độc đáo. Tranh dân gian Việt Nam cũng như truyện Tiếu lâm Việt Nam, có những nụ cười châm biếm, đả kích hóm mang quan niệm mỹ học của người nông dân lao động Việt Nam.
Nét vẽ, màu sắc, dáng diệu người, vật, cảnh, hoa, lá của tranh dân gian, không phải hoàn toàn là thể cách điệu, hay trang trí, cũng không phải là những hình tượng sao chép tự nhiên.
Nhận xét kỹ các nét vẽ và màu sắc, chúng ta sẽ thấy cái chân chất của tình cảm và lý trí. Những nét chắc nịch, dứt khoát, không có tính chất vuốt ve, khêu gợi như của các phái tân họa Tây Âu, thướt tha như nét khắc gỗ Nhật bản, hoặc có bút pháp như rồng bay phượng múa của quốc họa Trung Quốc cổ điển. Tranh dân gian Việt Nam hiền lành như hạt lúa củ khoai, vừa thông minh tươi tắn, đắn đo thận trọng lại vừa dễ dàng, thoải mái, sinh động, linh hoạt khiến nhìn vào như múa, hát. Màu sắc cũng vậy, là một bảng màu tươi roi rói, bình dị không những làm vui con mắt, mà còn làm tươi sáng cả không gian, thay đổi cả quan niệm về nhân sinh quan, chuyển buồn sang vui, đang khổ cực gợi lên niềm tin hứa hẹn. Chúng ta xem lại tranh gà “Đại cát” đang chân co, chân ruỗi, giương cánh vỗ, nét lông đuôi như múa, toàn thân như reo hét chúc tụng, đem lại điềm tốt lành may mắn. Những nét của tranh gà “Thư Hùng” biểu hiện sự dồi dào sung túc có tư thế tự hào, tự lực, như tâm tình rằng: hạnh phúc và no ấm do mình tự tạo ra bằng sức lao động của chính mình. Tranh “Trâu sen” với nét bút nhẹ nhàng cân xứng, nét mập, nét thanh nói lên ý nghĩa “tuy lao động mệt nhọc, nhưng không phải là không thoải mái, nên thơ. Tranh “Hứng dừa” với những đường nét to mởn, phòng như những chồi non đang trổ, biểu hiện tuổi thanh xuân, một bài thơ tuổi trẻ vui tươi hóm hỉnh – “đấy trèo đây hứng…”, bỏ dừa dưới đất, hái dừa trên cây. Nét vẽ, màu sắc tranh “Bà Triệu” với phong cách diễn tả như một vũ khúc, mà thật là một điệu hùng vũ, một bài tráng ca, người múa, voi múa phối hợp thành một điệu múa chiến đấu và chiến thắng. Nét vẽ và màu sắc của tranh khắc cũng vậy. Chúng ta nhận thấy rõ ngay trên hình thức tranh dân gian đã mang sẵn chất thơ, chất nhạc và chất chiến đấu.
Ngoài việc thể hiện những ước mơ đẹp đẽ, ca ngợi cái đẹp của sản xuất, có vũ tinh thần thượng võ (tranh võ trường, tranh voi, các tranh chiến đấu v.v…) tranh dân gian còn là một công cụ chiến đấu đẹp đẽ của nhân dân lao động dùng để đánh vào mặt giai cấp thống trị như tranh “Đám cưới chuột”, “Thầy đồ cóc”, “Hội Tây, nhảy đầm” v.v… Nó cũng là ngọn bút phê phán tế nhị những thói hư tật xấu như tranh “Đánh ghen”, “Trai tứ khoái, gái bảy nghề” v.v…
Chúng ta nhớ lại cảnh tấp nập của chợ Tết xưa, các em nô nức đi mua tranh, pháo, trong thúng của các bà mẹ, bà chị, dù nghèo túng đến đâu, ngoài đồ sắm tết đạm bạc, cũng không thể quên được món quà tranh. Tôi nhớ một nhà thơ nào đã có câu: “tranh, pháo không tiền con cấu bố…” đã minh họa được cái tác động mạnh mẽ của tranh dân gian. Và, đây kia những nét mặt lo âu hàng ngày bỗng vui tươi lên khi dán tờ tranh lên vách đất. Cả gian nhà liếp thưa, cửa trống, tối tăm cũng như bừng sáng, ấm cúng hơn cùng với màu hoa cải vàng trong mảnh vườn nhỏ trước nhà. Nó như hòa nhịp với tiếng khánh cá bằng đất nung mới, treo trên cành tre trước ngõ.
Tay cày, tay bút, nếp suy nghĩ, nguyện vọng, ước mơ, tâm tư, tình cảm của nghệ nhân và của nhân dân lao động, đều nhất quán. Cái nhìn của nghệ nhân và cái nhìn của nhân dân lao động rất thống nhất trên cùng một quan điềm. Những hình ảnh vẽ ra đều là những hình ảnh thân thuộc, gần gũi quanh mình trong cuộc sống cần lao. Những truyện anh hùng, lịch sử được truyền tụng, nhập tâm từ đời nọ qua đời kia, hoặc các truyện thơ như Kiều, Nhị độ mai, Thạch Sanh, Tống Trân, Phạm Công Cúc Hoa, Lục Văn Tiên v.v… thường được kể lại hay ngâm nga trong khi lao động sản xuất, trong những buổi chiều hè bên bát nước chè xanh, điếu thuốc lào hay xung quanh bếp lửa khi trời đông, tháng giá. Chính những tình tiết và những nhân vật trong các truyện ấy đã được nghệ nhân vẽ lại theo quan điểm tình cảm và sự thích thú của bà con và như phảng phất đâu đây bóng dáng và hiện thân của những người nghe và những người kể chuyện trên nét vẽ. Bộ tranh truyện Kiều của làng Hồ nói rõ cho ta những nét đó. Ở cảnh báo ân, báo oán, ta thấy Kiều như đứng chồm lên, vươn người ra phía trước, thể hiện thái độ của Kiều đối với Hoạn Thư, còn Từ Hải thì ngồi một bên để chứng kiến. Ngoài cửa, anh quân đang giơ thanh roi quất, giải Hoạn Thư vào. Nghệ nhân không những nói lên đúng tình cảm dứt khoát của người lao động hiện thời, còn minh họa đúng ý thơ của tác giả: Từ rằng việc ấy phó cho mặc nàng… Cảnh tái hồi Kim Trọng, thái độ của Kim Trọng cũng được thể hiện dứt khoát với tư thế nghiêng hẳn về phía Kiều, con người mà chàng đã “dắp mong treo ấn từ quan, mấy sông cũng lội…” và bây giờ được sum họp một nhà.
Cũng cảnh đó đem đối chiếu với bộ tranh Kiều Hàng Trống thì thấy khác hẳn. Trong cảnh báo ân, báo oán thể hiện Hoạn Thư quỳ trước mặt Từ Hải và Kiều đang ngồi song song trước án. Cảnh tái hồi Kim Trọng, ta thấy thái độ của chàng Kim lại rụt rè đắn đo. Biết nhìn vào ai bây giờ? Chăm chú vào Kiều thì không tiện, nhìn về Vân thì không nên, thôi đành nhìn vào mảnh quạt là hay hơn cả. Có thể nghệ nhân muốn gợi ý: quạt đây là chiếc quạt thề năm trước chăng? Dù muốn lý giải cách nào, ta cũng thấy rõ ràng bộ tranh Kiều Hàng Trống bị ảnh hưởng phần nào ý thức hệ của Nho giáo phong kiến, nó không hợp với tính chất những người lao động.
Về điểm này, chúng ta được thấy rõ thêm về quan niệm nghệ thuật của tranh dân gian và cái đẹp phải xuất phát từ nội dung, tình cảm chân thật và ý thức giai cấp của tác giả.
Cái đẹp điển hình cơ bản của tranh dân gian là tính chất giai cấp và tính chất dân tộc.
Đối tượng nào yêu thích tranh dân gian và đối tượng nào thù ghét nó, chúng ta đều đã biết. Nhất định trên tường vôi, vách phấn của nhà địa chủ, phú nông hay dưới mái cung đình của tập đoàn phong kiến xưa không phải là miếng đất phát triển của tranh dân gian. Đó là chỗ của những cái đẹp phù phiếm, “thời thượng”, những công cụ dùng để bảo vệ quyền lực của chúng như hoành phi, cuốn thư, câu đối, trướng gấm, bức thêu, tranh cổ, bài phú, bức khảm v.v… Chúng muốn bóp nghẹt nghệ thuật dân gian chính vì không thể hạn chế, kìm hãm được sức sống và tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân lao động, của dân tộc. Tranh dân gian đã biến thể thành những hình chạm nổi, tượng tròn, hay ngược lại, nó thâm nhập, tung hoành vào những nơi cấm địa ấy, ngay trước mũi chúng trên các căn nhà, đình, đài, cung điện. Những bức chạm nổi “Đánh vật”, “Đánh cờ”, “Uống rượu”, những cảnh sinh hoạt hàng ngày thậm chí cả những cảnh “tắm khỏa thân”, những gia súc như trâu, bò, gà, lợn, những con vật tầm thường như tôm, cua, cá chen lấn những con vật linh thiêng vào đồ tứ quý như Long, Ly, Quy, Phượng, tượng trưng cho uy lực của chúng.
MÀU SẮC CỦA TRANH DÂN GIAN
Tranh dân gian có một bảng màu độc đáo, trong sáng, rực rỡ. Tranh vẽ bằng những màu nguyên chất rất hạn chế như: hòe, hiện, chàm, đỏ đen, quế, lục và thêm chất trắng điệp. Thoáng trông thật có vẻ nghèo nàn, đơn sơ, nhưng họa sĩ nào muốn phô diễn kỹ thuật, chơi màu, chơi chất (matière) xin mời vào tham quan thế giới kỳ diệu này sẽ tự đánh giá quan niệm nghệ thuật màu sắc của mình.
Từ cách in màu, tô màu, đến cẩn, bồi làm cho bảng màu nguyên chất thô sơ ấy thiên biến vạn hóa vô cùng phong phú, hình thành một quan niệm về hòa sắc độc đáo với tính chất dân tộc, không những phù hợp với đời sống, không khí, ánh sáng trong hoàn cảnh lịch sử của nó, mà còn có một chỗ đứng vững vàng trong nghệ thuật màu sắc của hôm nay và ngày mai.
Những màu dùng là chất liệu lấy ngay ở xung quanh cuộc sống hàng ngày, ngay ở bên mình như than lá tre (đen), lá chàm, hoa hòe, hoa hiên, son, điệp – gọi là màu thuốc cái. Màu ít bị bay nhạt như màu phẩm vì là màu thiên nhiên nên khi in lên có chất chắc đanh nhưng lại mềm xốp. Chất điệp óng ánh làm cho màu trong và sâu, thêm biến chuyển những màu nguyên chất thành những màu quý giá.
Nguyên một nền điệp thuần chất cũng đủ lôi cuốn và hấp dẫn. Những vệt chòi lá thông kéo dài theo chiều dọc hay chiều ngang giấy, cho ta cảm giác như một tấm sồi dệt bằng tơ xà cừ trắng. Những mảng màu được đặt lên trên trở thành trong sáng và mát mắt. Nền điệp thường được lướt thêm một nước hòe hay hiên, đặc hay loãng, sắc lại thay đổi một lần nữa, ngả sang màu vàng óng ánh như những nôn tơ tằm, hay một lá vàng mười phủ tấm xa màu mỡ gà, càng nhuần nhuyễn thêm các màu nguyên chất và chuyền thành những sắc thái kỳ diệu.
Nghệ thuật in và bôi màu đều có phương pháp và kỹ thuật được nghiên cứu, tìm tòi, rất chu đáo và có tính chất phổ biến. Phụ nữ, trẻ em, ông già, bà già sáng mắt, chắc tay, đều bối được hết và bảo đảm kỹ thuật. Nếu ta chú ý đến những mảng lông của con vịt, con gà, áo yếm da thịt của hai tấm tranh « Vinh hoa *, * Phú quý sẽ thấy chất xốp của lông gà, chất cát của vải, chất mịn màng của da thịt, các thể chất được gợi lên, phân biệt rõ ràng từng loại.
Kỹ thuật bội màu lại càng kỳ diệu. Lấy tranh “Lý thu vọng nguyệt” làm tiêu biểu. Cách thể hiện khiến ta thấy như một con cá bằng xương, bằng thịt đang tung tăng bơi lội dưới ánh trăng rằm.
Người nghệ nhân chỉ cần một bút chổi và đưa vài nhất là đạt yêu cầu. Bút pháp kỳ diệu đó gọi là cản. Những khối của mây, làn nước, cánh hoa, hay mắt mũi, chân tay đều thể hiện bằng lối cản như vậy, và chỉ bằng một nhát bút, một lần lấy mực thôi.
Về chuyên môn, kỹ thuật sử dụng màu nguyên chất rất khó. Dựng một tấm tranh bằng những hòa sắc tươi sáng lại càng khó hơn. Màu sắc bị chua, sương, kệch hay rợ và dễ rơi vào miếng đất ngoại lai, làm mất tính dân tộc. Những hòa sắc dịu, trầm, thường dễ đạt hơn.
Nó có sức sống thực tế dào dạt, đượm màu dân tộc. Do đó, như tôi trình bày ở trên, màu sắc tranh dân gian làm tươi sáng không gian, thay đổi quan niệm về cuộc sống. Khi được dán lên trên vách đất, dưới mái nhà tranh trong dịp Tết, nó không chỉ là những màu sắc đơn thuần, tính chất và chức năng của nó thật rộng lớn, bao trùm, tình cảm và lý trí, dân tộc và giai cấp, với cốt cách rất hiện thực.
Sự biến hóa, vũ động phong phú của bảng màu tranh dân gian, như chúng ta thấy, thể hiện rõ nét tính tình và tâm lý con người nông dân lao động Việt Nam. Tính dân tộc và tính giai cấp trong bảng màu quyện thành một nguyên thể và thống nhất trong vẻ đẹp của tranh.
Nếu nói mỗi đường khắc, mỗi nét vẽ của tranh dân gian là sự thể hiện hiện thực của trí tuệ và tình cảm, thì màu sắc cũng là hình tượng của cảm xúc thành màu hiện thực.
Chúng ta thấy có những màu gợi lên sự vui, buồn hay làm mát mẻ sảng khoái tâm tư tình cảm, làm sôi sục huyết quản. Chúng ta thấy cũng những màu vàng son, qua sử dụng đã thể hiện sự uy nghi, hống hách của giai cấp phong kiến hay những màu trắng đen nghiêm trang bề ngoài của giai cấp tư sản. Chúng ta còn thấy có những màu đã trở thành quan niệm như màu trắng với ý nghĩa trong trắng tiết trinh, màu xanh lá tượng trưng cho tuổi xanh, màu xanh hòa bình, màu xanh công nhân, màu đỏ chiến đấu v.v… mỗi màu sắc đều mang ý nghĩa tượng trưng nào đó. Và ý nghĩa này có khi ở mỗi dân tộc, mỗi địa phương, còn gắn với những vấn đề thuộc về văn hóa, về phong tục tập quán, về tôn giáo nữa. Thực ra, ai cũng thích màu đẹp, không riêng gì công nông hoặc một dân tộc nào. Đạt được cái đẹp của màu sắc, làm cho mọi người đều thích tức là thực hiện được ý thức phục vụ quần chúng, phục vụ giai cấp.
QUAN NIỆM VỀ TẠO HÌNH CỦA TRANH DÂN GIAN
Mỗi dân tộc đều có một cách thể hiện hình tượng từ hiện thực sinh động của thiên nhiên và xã hội để vẽ lên giấy, dân tộc này miêu tả hiện thực theo lối tả chân, dân tộc khác lại khái quát thực tế bằng những đường nét đơn giản. Chúng ta thấy cách thể hiện của các dân tộc Tây Âu nặng về tả thực, ngược lại các dân tộc phương Đông lại thiên về lối khái quát hiện thực với nhiều tính chất trang trí.
Đứng về phía tả thực, cũng có người cho lối vẽ về trang trí thiếu chất tả thực, còn thô sơ. Cách nhìn và đánh giá về tranh dân gian của chúng ta cũng tương tự như vậy. Nếu chúng ta đứng về phương pháp tạo hình theo kiểu bác học để nhận xét cách tạo hình của tranh dân gian thì dễ thấy cái gì cũng sai, cũng thiếu khoa học. Dựng hình người, vật, hoa, lá đều xộc xệch. Tỷ lệ của con người không cần xứng, nếu lại đem so sánh với tương quan chung càng dễ thấy như thế! Đứng cùng một điểm mà người lại to hơn nhà, hoa lá to hơn cây, hơn người. Nói về thể hiện con người thì đường gân, bắp thịt, khối, bóng không biết tả. Cách diễn tả chỉ là lối mảng phẳng, đường viền. Màu sắc không gian và ánh sáng không thể hiện theo các quy tắc khoa học về tạo hình. Nếu gọi là một kiều vẽ trang trí thì cũng không đúng vì sự sắp xếp lại chẳng theo một nguyên tắc nào.
Nhưng tôi nghĩ, vấn đề đặt ra chủ yếu là làm thế nào nói lên được nội dung, diễn tả được ý đồ muốn nói để trình bày cho người xem hiểu và có sức thu hút tình cảm. Phương pháp tạo hình của tranh dân gian Việt Nam mang một phong cách khá riêng biệt. Nói là cách điệu cũng không phải, nhưng cũng không phải là lối đặc tả. Nghệ nhân đã khéo sử dụng phương pháp gợi và tả để diễn đạt hết ý, hết lời những hình tượng xây dựng trong tranh. Trong nghệ thuật tạo hình cũng như trong văn học, thơ ca, vấn đề lấy ý gợi hình, mượn hình tả ý là một kỹ thuật diễn đạt màu nhiệm. Những hình, những ý nào được gợi lên mới ăn sâu vào tình cảm người đọc và người xem. Trong tranh “Đánh ghen”, chỉ một mảnh bình phong cũng đủ gợi cho chúng ta biết không gian của sự việc đang xảy ra trước ngõ và nhân vật của giai cấp nào.
Tranh “Hội vật mùa xuân” với dáng điệu ngồi bó gối có vẻ chống rét của hai người ngồi đợi và hai chuỗi tiền giải cũng đủ gợi cho chúng ta thấy cả không gian và thời tiết. Cách diễn tả thái độ của các nhân vật, dáng điệu tư thế của đầu và mặt thường đi đối với cử chỉ phối hợp thành một động tác thống nhất để gợi sự việc sắp sửa diễn biến ra, như cử chỉ của các nhân vật trong tranh “Đánh ghen”. Mặt vênh, ngón tay giơ lên của chị vợ lẽ gợi thái độ thách thức vì được anh chồng thiên vị, sự phẫn nộ của người vợ cả, ngoài tư thế cầm kéo gọt gáy bôi vôi, còn thể hiện ở chi tiết khá quan trọng là hình ảnh búi tóc ngược gợi ý quyết liệt.
Tranh “Hứng dừa” với hai nhân vật phụ, một đứng bên gốc dừa quay mặt đi gợi lên sự vô tình hay hữu ý của một sự hớ hênh kia, còn một mắt thì liếc, chân thì nửa muốn trèo nửa muốn đứng lại gợi lên những nét vui tươi hóm hỉnh của lứa tuổi thiếu niên. Tất cả những tranh khác như ca ngợi, chiến đấu, châm biếm, đả kích v.v… cũng đều được diễn đạt bằng cách gợi tả như vậy.
Tranh dân gian còn một đặc điểm về quan niệm tạo hình là vấn đề vũ, động. Tất cả người và vật đều thể hiện bằng tư thế động, có thể không có một dáng nào tĩnh. Mỗi người, mỗi vật đều tả những động tác tươi vui (lợn cười, voi cười, gà hoan hỷ, tự hào, trâu khoan khoái thú vị v.v… ngay cả đến cỏ, hoa, cây cối và những họa tiết dùng đề trang trí cũng như múa như hát). Tất cả những phong cách, dáng điệu ấy đã gợi lên bản chất và những ước mơ… lạc quan, sức sống mãnh liệt, dồi dào, của nhân dân lao động, tính chất hiện thực trong cuộc sống cần lao, một “hình thái nghệ thuật xã hội chủ nghĩa không tưởng” nói đến những cái chưa thể hiện thực được dưới sự kìm kẹp của giai cấp phong kiến và thực dân.
Nghệ thuật tạo hình của tranh dân gian là một kho tàng quý báu. Chúng ta nhất định phải dành nhiều công phu và nhiệt tình để đi sâu vào nghiên cứu khai thác mới có kết quả tốt đẹp.
Tác giả
Nguyễn Đức Nùng
Biên tập
Anh Nguyên