Mộc và ngoã trong xây dựng truyền thống

Đời Hùng Vương của lịch sử Việt Nam xuất hiện với thời kỳ đồng thau phát triển. Ở những địa điểm đồng thau, các nhà khảo cổ phát hiện những điểm định cư lâu đời với rất nhiều đồ gốm lớn. Đồ gốm nặn bằng bàn xoay, nung trong lò. Trên lãnh thổ sinh trưởng đầu tiên của người Việt là miền bắc Việt Nam, sức lao động của những thành viên trong các công xã Lạc Việt, đã tập trung vào công việc làm ruộng (trồng lúa, cây lương thực) và nghề thủ công, mà trước hết là nghề luyện kim đồng thau, sản xuất nông cụ, vũ khí và các công cụ như rìu, đục, đục võm cho nghề mộc; và nghề mộc đã dựng được những ngôi nhà sàn mái con như hình thuyền đuôi én.

Nhà Sulavesi ở Inđônêxia. Nguồn: Internet

Nhà cửa từ thời văn hóa Đông Sơn được nói đến nhiều, dựa vào hình trang trí khắc trên trống đồng Ngọc Lũ. Ta có thể mượn kiểu nhà vùng Sulavesi ở Inđônêxia để có một hình ảnh cụ thể về “mái võng hình thuyền”, nhất là hệ thống con sơn đỡ hai đầu mái vênh lên, tỳ trên một cột cao vươn lên từ mặt đất, với một trình độ cao về kết cấu gỗ của bộ khung nhà sàn. Còn kiểu nhà mái vòm trên trống đồng thì hình ảnh nhà người Ma, Chil, Coho ở huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng cho ta một khái niệm, tuy đấy chỉ là một kết cấu thô sơ không sàn, và cũng không có bộ khung nhà. Ở trống đồng, cả hai kiểu nhà đều thể hiện mặt sàn thấp so với chiều cao của mái, mà dư âm còn vang trong khung cảnh Đông Nam Á của nền văn hóa Đông Sơn.

Nhà người Mạ ở Tây Nguyên. Nguồn: Internet
Kiểu nhà sàn trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Internet

Vật liệu xây dựng dùng nhiều đất sét nung. Ít dùng đất sét trắng, mà nếu dùng thì thường nung thành sứ tráng men vàng hay xanh. Đất sét đen dùng làm những vật trang trí lớn và ít chạm trổ. Đất sét đỏ được dùng phổ biến nhất, thường tráng men vàng như ta còn thấy ở Đại Nội thành Huế hay ở lăng Tự Đức, lăng Minh Mệnh.

Gạch mộ cổ từ những thế kỷ đầu của công nguyên là những gạch có trang trí và được nung kỹ. Triều đại phong kiến thịnh vượng nhà Lý, gạch nung có khác chữ. Hình như bắt đầu thời đại dân tộc độc lập, tổ quốc hùng cường, người ta muốn mỗi hòn gạch phải ghi lại cho con cháu ngàn đời sau những tháng năm vinh quang của dân tộc. Gạch “Đại Việt quốc quân thành” ở Trường Yên (Ninh Bình) thế kỷ X – XI là loại gạch đanh mặt đỏ sẫm, vuông cạnh. Cũng với chất lượng đất nung như vậy, những viên gạch khuôn khổ 24 × 9 × 5 cm có ghi các chữ “Lý gia đệ tam đế Long thụy Thái Bình tứ niên tạo” tức là năm 1057, được dùng xây tháp ở chùa Phật Tích (Hà Bắc).

Trong đồ đất nung, gạch trang trí mặt tường chiếm vị trí quan trọng về mặt kỹ thuật làm gạch cũng như về mặt nghệ thuật chạm trổ tinh vi. Từ thế kỷ XI – XII, các viên gạch vuông mỗi cạnh trên 37 cm, dày từ 4,5 cm đến 8,4 cm, màu đỏ vuông cạnh mặt phẳng không vênh. Trang trí hình trám nổi, hay hình hoa cúc, gạch hộp để thông hơi, gạch có mấu để gắn vào tường, gạch góc thước thợ, gạch có mộng, gạch kẻ nhiều gờ chỉ có khi mỏng 2 hay 3 cm. Gạch chạm đầu rồng thời Lý, Trần, nung thành sành tráng men.

Ngoài gạch xây và gạch trang trí rất phong phú về hình dạng và họa tiết, thời Lý, Trần đã nung những viên ngói mũi hài dày và nặng. Ngói dày 1,5 cm đến 2 cm cạnh dài tới 36,5 cm hay 41 cm. Ngói đỏ đanh mặt, không vênh, chứng tỏ kỹ thuật sản xuất cao. Cùng với ngói lợp còn những tấm trang trí hình lá đề hay hình tròn ở đầu ngói ống và ngói mảng chạm hình rồng, có khi chạm thủng và nung thành sành tráng men. Ngoài ra còn thấy cả những ống cống dẫn nước với đường kính 25 cm ở đền vua Trần (Tức Mạc – Nam Định).

Truyền thống nung gạch xa xưa còn thấy ngày nay ở gạch Bát Tràng với kích thước 30 x 30 cm, nung thành sành màu xám, dùng để lát sân, xây cột, xây tháp chùa, bền sức chịu đựng nắng mưa.

Đất nung trang trí kiến trúc, khi sản xuất thì trổ hình trên sản phẩm còn ướt, hoặc đổ khuôn. Gạch trang trí tháp Bình Sơn ở đời Trần có thể dùng kỹ thuật vừa đổ khuôn vừa trổ hình. Nhưng nói sao về những công trình chạm trổ trên gạch ở các tháp Chàm? Tháp ít tuổi thọ nhất thì cũng đã chọi với nắng mưa nhiệt đới 5 – 6 thế kỷ, nét trổ có nơi còn sắc cạnh. Những pa-nô trang trí hoa lá gờ chỉ với những nét chạm trổ quen thuộc trên sa thạch, thì ở đây lại thấy trên gạch nung. Không phải gạch nung ốp vào tường xây sau khi cốt tường gạch đã hoàn thành, mà chính là mặt tường, đã được chạm trổ. Không phải chạm trổ hay đúc khuôn từng viên gạch riêng lẻ rồi gắn vào cạnh nhau như tháp Bình Sơn. Những mạch vữa nhỏ như sợi chỉ và các họa tiết trên một pa-nô trang trí có khi cao vài mét, những khối gạch xây sẵn ở vị trí sẽ tạc tượng như ta thấy ở Mỹ Sơn, khẳng định rằng sau khi xây tường xong rồi nhà điêu khắc Chàm mới dùng tài nghệ có một không hai của mình chạm trổ vào mặt tường gạch như chạm trổ vào mặt đá. Nếu các nhà kỹ thuật đất nung chứng minh rằng không thể nào trộn và nung đất sét một lần mà có những viên gạch đều hạt để rồi nhân sự chạm trổ như xa thạch, thì vấn đề kỹ thuật làm gạch nung và nghệ thuật chạm trổ độc đáo ở tháp Chàm còn là điều phải phát hiện. Có chuyên gia về vật liệu xây dựng đã nói gạch phải nung hai lần.

Trang trí trổ hình trên gạch nung sau khi xây ở Tháp Chăm tại Thánh địa Mỹ Sơn.
Ảnh: Triệu Chiến

Trong những điều kiện thực tế của nước ta, kiến trúc cổ ít dùng đá, và nếu dùng thì thường dùng vào bộ phận nhỏ của công trình như thềm, tảng kê cột, có khi làm cột hay mí cửa. Một công trình lớn bằng đá mà lịch sử chú ý là thành nhà Hồ xây năm 1397. Tường thành xây bằng đất nện, hai mặt ngoài bằng đá tảng, có tảng nặng trên 15 tấn. Các cổng xây cuốn tò vò bằng đá xẻ ngày nay vẫn đứng vững, mặc dầu đã trải qua 6 thế kỷ. Ở đây, cuốn đá xây vững chắc nhờ kỹ thuật cắt đá và sắp đá, hòn nọ giữ hòn kia chắc chắn trong một vòm tròn theo những mạch hướng tâm.

Trong vật liệu xây dựng dân gian thì đá ong được nhân dân một số địa phương ưa chuộng do tính năng của đá ong mềm khi còn ở dưới đất, dễ cắt gọt, nhưng rất rắn với thời gian. Do đó đá ong dùng xây móng, xây tường đình chùa rất vững chắc. Nhiều nhà ở nông thôn xây tường bằng đá ong. Lăng ông Đông Kiều Nguyễn Diễn xây ở thế kỷ XVIII toàn bằng đá ong. Lăng mộ bình dân ở nhiều tỉnh phía Nam cũng xây bằng đá ong, cắt gọt theo những hình trang trí dân gian, có khi khéo kết hợp với đá vôi dể chạm khác.

Những ngôi nhà ở Đường Lâm (Hà Tây cũ) sử dụng đá ong làm tường. Ảnh: Triệu Chiến

Một ngôi mộ đá ong ở thôn Vạn Tường, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi cũ). Nguồn: Vnexpress.

Nhà ở dân gian ở nhiều nơi còn làm tường bằng đất nền, gạch không nung hay trát vách bằng bùn rom vào một cái khung tre. Kỹ thuật chọn đất, nhào bùn, pha rơm, nên tường trình rất phổ biến ở nông thôn. Trong kháng chiến chống Pháp, để chống giặc đốt nhà, có nơi đồng bào Miền Nam còn trát đất trên mái trước khi lợp lá để chống cháy, mái làm thành từng tấm, khi giặc đến, chỉ buông những sợi dây buộc là mái nhà tụt xuống theo độ dốc và nằm dưới chân tường. Nhân dân làm chủ trên quê hương thân yêu của mình đã phát triển một nền kỹ thuật dân gian phù hợp với điều kiện đời sống vật chất và văn hóa của địa phương, tạo nên những vật liệu xây dựng phong phú cho nhà cửa, bản làng.

Vật liệu quen thuộc ở đồng bằng sông Hồng xưa, kỹ thuật kết hợp tre, lá, vách bùn vào cốt tre làm nhà tranh. Nguồn: Internet
Nhà Xoan, sử dụng gỗ xoan làm nhà, thực hiện bởi văn phòng kiến trúc NH Village. Ảnh: Hiroyuki Oki

Ở đồng bằng sông Hồng, nông thôn xưa và nay vẫn dùng tre tự trồng quanh nhà, kết hợp với xoan làm vật liệu xây dựng. Cây xoan, được chia cho các bộ phận, phần gần gốc có dạng tròn dùng làm cột, phần trên đẽo gọt làm xà, kèo, giá chiêng… Một số ý kiến cho rằng vì kèo của nhà nông thôn lãng phí gỗ, song nhiều ý kiến khác cho rằng vì kèo chồng rường dân gian triệt để lợi dụng thân cây xoan là cách sử dụng tiết kiệm vật liệu. Vì kèo chồng rường dân gian phù hợp với thân gỗ cây xoan. Không cần cắt xẻ thần cây xoan như cắt xẻ thân gỗ lớn đưa từ rừng về để làm vì kèo tam giác trên cơ sở vận dụng sức bền vật liệu với tính khoa học cao. Xoan chống mối mọt có lẽ nhờ chất nhựa chát, khi dùng người ta thường ngâm hoặc đốt vỏ cho nên ngàn đời qua nhân dân vẫn ưa chuộng và tư túc gỗ xoan.

Ngoài gỗ xoan, tre và họ nhà tre được nhân dân dùng phổ biến để chế tạo từ cột nhà đến đòn tay, rùi mè và cả tràng kỷ, ban ghế trong nhà. Chọn cột kèo, chọn đòn tay bằng tre phải đều dòng, là có ý nghĩa khoa học về sức bền vật liệu cũng như ý nghĩa mỹ quan. Họ hàng nhà tre được phân công để cấu tạo bộ khung nhà như: bương, vầu làm cột nhà vì thân to dầy, đốt ngắn nên chịu sức nén khoẻ, tre đằng ngà làm đòn tay vì thân hầu như đặc lại dẻo dai nên chịu sức kéo tốt, thẳng và dầy tương đối đều được bổ ra và đan thành lá để làm sàn nhà của đồng bào miền núi, nứa mỏng đập rập để lớp mái nhà nơi gần rừng nứa; ở đồng bằng phần nhiều chỉ có tre, thì tre được dùng trong khung nhà cũng như làm phên dại: gốc hay phần gần ngọn tre được dùng cho từng bộ phận kết cấu của nhà theo kinh nghiệm.

Tre dùng làm tường nhà người dân tộc Nùng ở Bắc Sơn, Lạng Sơn. Nhà lợp ngối âm dương sản xuất tại địa phương. Ảnh: Triệu Chiến.

Dùng tre để làm nhà, người nông dân Việt Nam còn thành thạo trong kỹ thuật chống mối mọt. Tre nứa không chặt vào mùa mưa, vì dễ sinh mọt, lạt buộc bằng mây, tre phải luộc trước khi chẻ. Chẻ rồi còn gác bếp, nhờ khói củi chống mọt. Tre ngâm chống mọt, ngâm khoảng một năm, là biện pháp quen thuộc lâu đời.

Lá lợp mái nhà cũng phải theo tiêu chuẩn quy định trong dân gian, lấy lá già vào mùa khô để chống mọt. Cỏ tranh để lợp mái, đồng bào Thái đòi phải dài một sải tay để đảm bảo yêu cầu chịu đựng nắng mưa, chống mọt và sâu bọ khác.

Nếu chống mối mọt chưa dùng đến một hóa chất nào, thì trong việc sản xuất chất kết dính, yếu tố hóa chất đã là cơ sở khoa học chế biến một số vữa xây tường. Ốc vặn đốt thành than luyện với nhựa cây dè dớt, vôi vỏ sò trộn với mật nhào kỹ tạo thành một chất vữa không dễ dàng đập vỡ. Ở Nghệ An, đồng bào sống gần biển thường dùng một thứ vữa bằng vôi vỏ sò hến, nghiền nát, rất kỹ, trộn với cát, mật mía xấu, giấy bản hay rơm nếp vò nát ngâm cùng với nhựa lá cây bời lời.

Có địa phương lấy cơm nếp trộn với gạch non đã tán nhỏ rây kỹ cùng với lá khoai luyện thành một thứ vừa gọi là sơn nam, thường dùng để gắn chặt mạch áo quan. Cũng với mục đích này, có địa phương quen dùng cơm nếp nát nấu với nhựa thông.

Chất vữa truyền thống dẻo quánh, hoặc đổ khuôn hoặc đắp nặn theo nghệ thuật của các nhà điêu khắc đã tạo nên những hình trang trí ở đầu tứ trụ và trên nóc mái đình chùa.

Lăng, miếu cung điện cố đô Huế dùng mảnh sứ tức “pháp lam” nhiều màu sắc đắp các kiểu trang trí trên mái nhà và mặt tường có thể cũng dùng chất kết dính dân gian ấy. Tháp Chàm đứng hiên ngang hàng chục thế kỷ trên các ngọn đồi dưới nắng mưa nhiệt đới nhiều sức phá hoại, cũng nhờ một chất kết dính gắn chặt các viên gạch nung, lộ ra mặt tường như một sợi chỉ, chắc chắn không phải một chất kết dính nào xa lạ với đồng bào hiện nay. Vôi và xi măng đã thay thế, nhưng công thức chế chất dính xây tháp Chàm còn trong trí nhớ dân gian.

Nghệ nhân dùng tay nghề điêu luyện dùng thứ vữa truyền thống để tô điểm cho đình chùa ở các làng. Ảnh này chụp tại Đình Phú Hữu (Hà Tây cũ), chụp bởi Triệu Chiến.
chiếc “bửu tán” đắp bằng vôi vữa nặng trên một tấn cũng khảm kín mảnh gốm sứ, thủy tinh màu một cách tinh xảo, khéo léo trong Lăng Khải Định (Huế). Ảnh: Triệu Chiến.

Kinh nghiệm dùng gỗ từ lâu đời đã dẫn đến truyền thống kỹ thuật lắp dựng. Đó là khung lắp dựng mà ngày nay còn mang tính hiện đại của kết cấu khung bằng gỗ lắp theo ba chiều không gian thông qua mộng, nhất là mộng ở đầu cột có độ chính xác gần như cơ khí. Kết cấu khung dễ tháo lắp, cho nên không có gì lạ khi thấy một nhà thờ họ ở Quảng Bình đã được chở ra Hà Nội dựng ở làng Vẽ, và ngược lại một số cung điện thành Hà Nội, nhà Nguyễn đã dỡ ra đem vào dựng ở thành Huế. Di chuyển từ ngoài sông đưa vào trong đồng để tránh nước sông mùa lũ lụt, đồng bào Hà Nội biết có đền Hai Bà Trưng và chùa Trấn Quốc.

Sự đổi thay trong kiến trúc không phải là bộ khung của các đền chùa được di chuyển. Có chăng là các bộ phận xây gạch và trang trí bằng vữa phải thay đổi dưới bàn tay khéo léo của thọ ngõa còn để lại dấu ấn của thời đại đã trùng tu hay di chuyển công trình. Đình Chèm ở ngoài đê trên bờ sông Hồng phía bắc Hà Nội đã được nâng lên 6 thước ta (2,40 m) trên nền cũ. Bao nhiêu cột thì làm bấy nhiêu đòn bẩy, một đầu gánh chân cột một đầu đeo chiếc quang đủ vững để gánh hàng trăm viên gạch vồ. Gạch được xếp đồng bên cột. Theo từng tiếng trống chỉ huy, người ta đặt nhanh một viên gạch vào quang đầu đòn bẩy. Cả ngôi đình nâng lên nhè nhẹ, theo sức nặng của viên gạch được đòn bẩy nâng lên. Cột nâng lên đến đâu, chèn gạch vào chân cột đến đó. Nền ngôi đình được đắp thêm, bó kè và xây thêm bậc. Chỉ tường gạch xung quanh là có đổi thay hình dáng so với ngôi đình trước khi kiệu lên.

Đình Chèm xưa. Ảnh: Internet

Đã từ lâu, bàn tay con người tác động vào tre gỗ nhờ những công cụ cầm tay. Đồng bào các dân tộc ở Gialai – Kontum đã dùng rìu và dao dựa đẽo gỗ chặt tre cũng như đồng bào Cao Lan và Sán dìu. Nhờ những công cụ đó, đã dựng lên được những ngôi nhà Làng, nhà Rông đồ sộ. Nhà Làng của đồng bào Xơ Đăng và Ba Na và Gia Rai là những ngôi nhà lớn và vững chắc nhờ một số cột cao lấy từ rừng già. Đã có thêm một công cụ mới là cái đục để làm những mộng thô sơ. Nhưng một số đồng bào du canh du cư ở miền núi còn ưa dùng cột đầu có chạc đôi để đỡ dầm nhà, dây hoặc lạt (xoắn chặt và được để ở gác bếp từ lâu) ghì chắc quá giang hay xà với cột, thay cho mộng phải dùng tới cái đục là công cụ chưa quen thuộc.

Còn quá ít những công trình khai quật khảo cổ về kiến trúc gỗ để nói một điều về quá trình phát triển xa xưa của kỹ thuật làm khung nhà bằng gỗ như đang thấy ở các vùng dân tộc nước ta.

Dao dựa hay rìu ngày nay được dùng có khác nhau ở mỗi dân tộc. Rìu và dựa ở bàn tay khéo léo của đồng bào Ê Đê và Ba Na đã tạo ra những công trình điêu khắc giàu tính dân gian trên thân cây tròn dựng trước buôn làng hay cửa nghĩa trang và những chi tiết trang trí kiến trúc như những “khau cút” những khung cửa sổ nhiều hình lượn làm đẹp các nhà đồng bào Thái hoặc những tay vịn cầu thang lên sàn nhà Rông của đồng bào Gialai – Kontum.


Nội dung
Ngô Huy Quỳnh

Tổng hợp & Biên tập
Anh Nguyên