Trên các vùng núi phía Bắc đã lâu tồn tại một dòng tranh thờ của các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan… Những nguyên bản tranh này niên đại khoảng 200 năm trở lại đây có tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Bảo tàng Việt Bắc xưa (nay là Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam). Và rất nhiều con cháu các thầy mo, thầy tào, thầy cúng còn cất giữ tranh thờ do ông cha họ để lại. Cho đến nay chưa có ai đủ hiểu biết để đánh giả, việc phân loại cũng chưa được tiến hành, nguồn gốc trực tiếp của tranh thờ miền núi cũng chưa rõ ràng. Thời gian trôi đi, ý nghĩa đích thực của tranh thờ càng trở nên xa lạ với chúng ta, bởi toàn bộ giá trị huyền bí và không tưởng của nó. Ở đồng bằng Bắc Bộ, những dòng tranh như Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng ngoài in tranh sinh hoạt, chúc tụng cũng sản xuất tranh thờ.
Giữa tranh thờ miền xuôi và miền núi có mối quan hệ gần gũi không chỉ ở những quan niệm cơ bản, hình thức thể hiện, mà còn ở sự thống nhất về mặt triết học nữa, trong đó tư tưởng Nho, Lão, Phật hòa trộn sâu sắc với tín ngưỡng bàn địa mà các vùng núi phía Bắc là nơi qua lại đầu tiên của các nhà truyền giáo trước khi lan ra toàn Việt Nam. Không phải là những người thợ vẽ hoặc các nghệ sĩ khuyết danh, mà là các thầy mo, thầy cúng làm nghề phù thủy đã trực tiếp vẽ những tranh thờ. Hãn hữu lắm họ mới mời người ngoài và yêu cầu khắt khe đối với người đó, cũng giống như họ phải ăn chay, tính niệm, sống xa vợ con, trong đất. Về tôn giáo, họ thể hiện một cách kính trọng, còn công cộng rất hậu hĩ. Tính nguyên sơ của nét vẽ, sự hàm súc của nội dung huyền thoại chen lẫn hiện thực, cách thống nhất hình tượng, vẻ giàu sang là đặc trưng của tranh thờ.
Tranh thờ miền núi chia ra rất nhiều loại, mỗi loại lại có nhiều bức, họp thành một bộ. Khi hành lễ, các nghi thức diễn ra trước tranh thờ và liên quan đến những bài khấn, âm nhạc trầm buồn kéo dài hoặc réo rắt từ dàn tính. Tranh Thập Điện Diêm Vương có mười hai bức, Tam thanh Ngọc Hoàng Thượng đế bốn bức, Tam tòa Thánh mẫu bốn bức, các nguyên soái tám bức, Ngữ hồ sáu bức, Rồng phương hai bức, và còn các tranh như thần Giao thông, Thần Nông, gia súc thiêng liêng… nên số lượng thực chất của tranh thờ miền núi là rất khó xác định, bởi vì phạm vi của nó trùm lên nhiều mặt của cuộc sống ngày xưa, và không cùng với các nghi lễ tôn giáo.
Việc tìm hiểu càng làm cho nó trở nên phức tạp, không thống nhất trong trí tưởng tượng, khi mà con người muốn giải thích thế giới một cách đơn giản, nhưng lại không thể, đã nhân cách hóa những điều không thể giải thích bằng toàn bộ hình ảnh và tính cách của mình. Cách tốt nhất là coi thế giới siêu hình cùng tồn tại với thực tế, khuyên răn điều thiện, đe dọa việc ác, gần gũi với những vẻ đẹp và đức tính tốt của thần thiện, khuếch trương điều quái dị để dọa.
Hãy bước vào không gian siêu hình đó.
Đệ nhất điện Tần Quảng Vương
Đệ nhị điện Sở Giang Vương
Đệ tam điện Tống Đế Vương
Đệ tứ điện Ngũ Quang Vương
Đệ ngũ điện Diêm La Vương
Đệ lục điện Biện Thành Vương
Đệ thất điện Thái Sơn Vương
Đệ bát điện Chính Quang Vương
Đệ cửu điện Đô Thị Vương
Đệ thập điện Chuyển Luân Vương.
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Màn trời mây ngữ sắc hé mở trong bức tổng hợp Thập điện Diêm Vương, Phật Như Lai ngồi tọa thiền, có hai thị giả đứng hầu. Tầng dưới là 10 vị Vương gồm Tần Quảng Vương, Sở Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Diêm La Vương, Biện Thành Vương, Thái Sơn Vương, Chính Quang Vương, Đô Thị Vương và cuối cùng là Chuyên Luân Vương, dàn hàng ngang ngồi phán xử các bị cáo tội lỗi trên trần gian. Tiếp đó, 9 bức tranh Thập điện của từng vua, kẻ ác lần lượt được quỷ đói dẫn vào tra tấn như cưa mình, chó ngao cắn, bỏ vạc dầu, móc mắt, cắt lưỡi, nướng trên lửa, dùng nước sông băng… Cuối cùng, ở bức Chuyển Luân Vương, bọn họ được đưa vào bánh xe luân hồi nghiền ra các kiếp người, súc sinh, ma quỷ, ruồi nhặng… Bức 12 là Phá ngục, vẽ hai con quỷ cầm búa đập nhà ngục, ý chỉ khi nào trên thế gian toàn người tốt thì giải tán Thập diện.
Bức Thần Nông vẽ thần Nông dữ tợn hai tay cầm mặt trăng và mặt trời, phía dưới là nông dân cày bừa, gặt hái, chọc lỗ tra hạt. Bức Gia súc thiêng liêng thể hiện từng cặp lợn, bò, dê, gà, người giao phối.
Bức Thần Nông, tranh thờ của người Cao Lan.
Nguồn: Internet
Nhìn toàn thể, mọi sự việc có thật được chắp vá một cách tự nhiên, nghiêm túc định hướng cho mục đích khuyến thiện, cho mong ước hạnh phúc. Cũng như tranh thờ miền xuôi, tranh thờ miền núi về hình tượng nhân vật, theo cấp bậc, ai chức to vẽ to, ai chức bé vẽ bé, được sắp xếp theo tầng cố định cho tất cả các tranh từ dưới lên trên: Địa ngục (dành cho ma quỷ) – Trần gian (các loài) – Trời (thần thành) – Niết bàn (chu phật).
Tranh thờ “ Hải Bá” của dân tộc Dao Tiền.
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Tranh thờ “ Nam Hoa” dân tộc Cao Lan.
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Công tào Thiên phủ, Địa phủ, tranh thờ dân tộc Dao. Sưu tập Phạm Đức Sĩ
Song, không như tranh miền xuôi, tranh miền núi sử dụng các lớp chéo trên không gian tranh, vì đối với dân miền núi, lên trời không phải là bay lên mà là đi lên, cũng hợp với cảm quan thị giác núi rừng của họ. Màu sắc tranh thờ nguyên sơ trong đơn sắc: vàng nghệ, đỏ đá son, xanh chàm, nâu gỗ nâu, đen cho than và cả vàng bạc thật. Trên mặt phẳng tô vàng, như tranh trung cổ phương Tây, màu sắc được vẽ theo nguyên tắc tương phản (đỏ-đen) hoặc tương đồng (vàng – da cam – bạc). Đồng thời, màu sắc cũng chỉ định đẳng cấp của nhân vật, như tranh Tam Tòa Thánh mẫu: đệ nhất áo đỏ, đệ nhị áo xanh, đệ tam áo trắng, hoặc theo phương hướng như tranh Ngũ Hồ: nam đỏ, bắc đen, tây trắng, đông xanh, trung tâm vàng. Khi ngồi trong buổi hành lễ, hãy chú ý tới bức tranh thêu tuyệt vời trên áo cúng thầy phù thủy. Chiếc áo đen tuyền, viền đỏ. Hai vạt thêu đối xứng gồm rồng, nghê, cá chép. Phía sau lưng, từ trên xuống dưới: ba bà chúa Thiên cung Thánh mẫu – Thượng Ngàn Thánh mẫu, Thoái Phủ Thánh mẫu cưỡi phượng, lầu sơn trang, năm quả núi tượng trưng cho ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; bát quái Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, cuối cùng là cảnh chèo thuyền dưới âm cung, hai bên sườn là các hàng người cưỡi ngựa.
Đó là các “họa sĩ thầy tu” khi về một cách trung thực với bản thân và với niềm tin tôn giáo. Không sáng tác nào của họ không từ đẹp trở lên, không tác phẩm nào không đầy ắp ma lực được truyền từ đời này sang đời khác trong dòng họ của những người đảm nhiệm vai trò môi giới giữa quỷ thần với con người, giữa huyền thoại và hiện thực.
Trong cuộc sống nhiều khó khăn bởi thiếu hiểu biết, trong sự hấp dẫn của nghệ thuật những thực thể trông thấy được nhưng không nắm bắt được, mâu thuẫn với cảm tính bẩm sinh của con người là ham hiểu biết và luôn muốn vươn lên, muốn tốt đẹp hơn thực tại. Tranh thờ là trực giác vẽ những cái không giải thích được và mâu thuẫn đó. Chính nó đã tạo ra cả tôn giáo lẫn hiện thực – cái khởi nguồn sản sinh ra nó.
Tác giả
Phan Cẩm Thượng