JUNYA ISHIGAMI

Sản xuất: Xiang Ling
Biên tập: Hu Jialin
Thực hiện: Wu Chenxi, Shi An, Pang Renfei
Tổng hợp và biên tập: Anh Nguyên

Kiến trúc sư JUNYA ISHIGAMI
Ảnh: CHIKASHI SUZUKI

Văn phòng kiến trúc của ông được thành lập vào năm 2004. Có dự án nào đã tạo nên một bước ngoặt không?

Thật khó để xác định đâu là một bước ngoặt rõ rệt. KAIT Workshop là một trong những dự án đầu tiên của tôi, còn KAIT Plaza thì ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của nhiều dự án khác. Nó không hẳn là một điểm ngoặt, mà giống như một dự án kéo dài trong thời gian tương đối lâu, mỗi lần lại tác động đến cách chúng tôi suy nghĩ về những công trình tiếp theo. Thậm chí, một số phác thảo ý tưởng ban đầu mà tôi chưa từng thực hiện cũng đã để lại dấu ấn trong các công trình sau này. Trong tâm trí tôi, tất cả các dự án ấy đan xen với nhau một cách phức tạp.

Có vẻ như nhiều kiến trúc sư Nhật Bản sử dụng vật liệu xây dựng khá cụ thể làm đặc trưng cho kiến trúc của họ. Nhưng các công trình của ông thường sử dụng đa dạng vật liệu. Quan điểm của kiến trúc sư về vật liệu là gì?

Tôi cố gắng không chủ ý phân tách giữa vật liệu, cấu trúc và không gian trong thiết kế. Với tôi, chúng cần đứng ở vị thế bình đẳng trong kiến trúc. Ví dụ, khi thiết kế một công trình bằng bê tông, tôi không đặt mục tiêu trước tiên là tạo ra không gian từ bê tông, mà nghĩ về vật liệu như một tổng thể. Từ đó, mối quan hệ giữa vật liệu, cấu trúc và không gian sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể.

Viện Công nghệ Kanagawa ©junya.ishigami+associates

Ông từng đề cập rằng kiến trúc không thể tránh khỏi cảm giác của một vật thể nhân tạo, trong khi dự án HOUSE&RESTAURANT ông thiết kế ở tỉnh Yamaguchi được xây dựng theo cách hoàn toàn giao phó cho đất. Đây có phải là sự thể hiện suy nghĩ của kiến trúc sư về mối quan hệ giữa kiến trúc và tự nhiên?

Chủ nhà hàng không yêu cầu một không gian kiến trúc mới toanh, sáng bóng, mà ủy thác cho chúng tôi tạo ra một bầu không khí hoài cổ cho khách hàng, như thể họ đang dùng bữa trong một tòa nhà cổ kính. Vì đây là một dự án mới xây, tôi đã suy nghĩ về cách làm sao để mang lại sức hút cổ xưa cho công trình ngay khi nó vừa hoàn thành. Cách thông thường là thêm các lớp hoàn thiện mang vẻ cũ kỹ vào, hoặc trực tiếp tạo ra kiến trúc giả cổ. Nhưng đó không phải là cách tiếp cận tôi muốn.

Khi suy nghĩ về định nghĩa của “tính cổ xưa” trong kiến trúc, tôi coi một công trình mới xây là một “sản phẩm nhân tạo”. Sau đó, nó sẽ bị phong hóa, phá hủy, và cuối cùng mục nát thành đống đổ nát, trở về với cảnh quan và tự nhiên. Nếu tính cổ xưa là trạng thái trung gian giữa sản phẩm nhân tạo ban đầu và trạng thái tự nhiên cuối cùng, liệu có thể mang lại vẻ đẹp cổ xưa cho kiến trúc ngay từ đầu bằng cách tạo ra những công trình ở trạng thái trung gian này không? Từ đó, ý tưởng xây dựng công trình theo cách tạo ra cảnh quan đã ra đời.

Tôi nghĩ rằng cảm giác cổ xưa không nằm ở cảm giác của đất, mà ở những nơi vượt ngoài tầm kiểm soát của kiến trúc sư. Sự mục nát của một công trình, xét cho cùng, là một quá trình tự nhiên, hoặc bị tác động bởi các điều kiện tự nhiên như gió hoặc mưa. Nó không bao giờ được kiểm soát bởi kiến trúc sư, mà đúng hơn là sự không chắc chắn do hiện tượng tự nhiên mang lại từ từ thay đổi hình dạng của công trình. Để tạo ra những thay đổi như vậy ngay từ đầu, chúng tôi đào đất bằng tay như thể đang xây dựng một cảnh quan.

Vì không thể đào đất chính xác theo bản vẽ 3D, và có những viên đá không thể đoán trước hoặc đất quá mềm rải rác trên công trường, công trình tự nhiên thay đổi hình dạng ban đầu của nó. Bằng cách này, kết quả dường như không hoàn toàn tuân theo đề xuất của kiến trúc sư, điều này thú vị là mang lại cảm giác cổ xưa, có thể không đến từ đất.

House & Restaurant – Một kiến ​​trúc nội tâm hóa những biến dạng và bất định của tự nhiên. © junya.ishigami+associates
Xưởng KAIT bên trái, quảng trường KAIT bên phải. ©junya.ishigami+associates
Viện Công nghệ Kanagawa.
©junya.ishigami+associates

Không gian sàn mới được tích hợp với mặt đất.
© junya.ishigami+associates

Tôi đã đến thăm hai dự án của ông xây dựng cho KAIT. Tôi nhận ra rằng có rất nhiều cột trong KAIT Workshop, trong khi chúng được thay thế bằng một loạt các ô mở trên mái ở KAIT Plaza… Kiến trúc sư nghĩ gì về hai công trình này?

KAIT Workshop và KAIT Plaza đều là những dự án khá sớm trong sự nghiệp của tôi, thực tế được hình thành trong cùng một giai đoạn. KAIT Plaza khởi động chỉ chậm hơn một chút so với KAIT Workshop, nhưng phải mất hơn mười năm mới hoàn thành. Cả hai công trình đều thuộc thời kỳ đầu, khi tôi còn suy nghĩ về kiến trúc của tương lai. Thay vì tiếp cận từ góc độ cấu trúc không gian thuần túy, tôi có xu hướng nhìn công trình như một dạng cảnh quan, hay rộng hơn nữa, như một môi trường bao trùm.

KAIT Workshop cần vận hành đúng với chức năng của nó, nên tôi bố trí nhiều cột để tổ chức không gian. Công trình này được hình dung chủ yếu từ cấu trúc và mặt bằng. Trái lại, KAIT Plaza, dù được định hướng là nơi giao lưu của sinh viên, lại không gắn với một cách sử dụng cụ thể nào. Nó giống như một sân trong, được tôi thiết kế dựa nhiều vào trực giác. Về hình thức, Workshop được định nghĩa bởi hệ cột và dầm, trong khi Plaza lại được tạo thành từ những bức tường và một mái lớn. Cả hai, theo cách nào đó, đều vừa là kiến trúc vừa là cảnh quan, và đây chính là sợi dây kết nối hai dự án.

*KAIT – Kanagawa Institute of Technology Workshop (Học viện công nghệ Kanagawa)

Ảnh chụp từ trên cao của Quảng trường Viện Công nghệ Kanagawa. ©junya.ishigami+associates

Kokage-gumo: cấu trúc được đặt để tránh những cây cổ thụ hiện có mọc dày đặc trong vườn © junya.ishigami+associates

Vườn nước. © junya.ishigami+associates

Bảo tàng nghệ thuật Zaishui (Sơn Đông, Trung Quốc). © 存在建筑

Ông thích sử dụng hình ảnh của mây hoặc rừng trong kiến trúc, và hình dạng mềm mại, hữu cơ này dường như là câu trả lời của kiến trúc sư cho “kiến trúc tự do”. Quan điểm của ông về hình dạng của kiến trúc là gì?

Tôi muốn diễn đạt sự tự do của kiến trúc thông qua hình khối. Đối với tôi, kiến trúc không chỉ tạo nên công trình mà còn góp phần định hình môi trường và cảnh quan. Trong các dự án như KAIT Workshop và KAIT Plaza, tôi đã cố gắng lồng ghép ý tưởng này bằng việc sử dụng các hình thức kiến trúc khác nhau. Hình khối “tựa mây” xuất phát từ mong muốn để kiến trúc thay thế chính cảnh quan. Nếu như KAIT Plaza tiếp cận cảnh quan từ góc nhìn của kiến trúc, thì hình dạng tự do của mây lại đi theo hướng ngược lại: lấy cảnh quan làm điểm khởi đầu để kiến tạo công trình. Nói cách khác, thay vì chỉ xem hình dạng mây như biểu hiện của sự tự do, đó chính là một cách tiếp cận để chạm tới sự tự do.

Ông đã thiết kế Bảo tàng Nghệ thuật Zaishui ở Sơn Đông, Trung Quốc, nơi chúng ta thấy một sự tương tác trực tiếp và cấp tiến với thiên nhiên. Đây có phải cũng là nỗ lực của kiến trúc sư để khám phá mối quan hệ giữa kiến trúc và thiên nhiên bằng cách coi kiến trúc như cảnh quan?

Điểm chung trong các tác phẩm của tôi là luôn xem kiến trúc như một dạng môi trường – một cảnh quan. Tôi cũng cho rằng mục đích của việc xây dựng là tạo ra không gian nội thất, nhưng đồng thời, tôi lại có những hoài nghi về chính khái niệm “tạo ra không gian bên trong công trình” ấy.

Khi nhìn vào kiến trúc đương đại trên toàn thế giới, có thể thấy các vấn đề môi trường là yếu tố quan trọng cần được cân nhắc. Nhiều người cho rằng chỉ cần không gian bên trong duy trì được nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng ổn định thì công trình đã mang lại sự thoải mái, bất kể nó đặt ở đâu. Tôi không đồng tình với quan điểm đó. Theo tôi, kiến trúc không thể chỉ được hiểu như một “môi trường nội thất” tách biệt. Trong lịch sử Nhật Bản, mùa hè nóng bức, buộc nhà ở phải thông gió tốt, còn mùa đông giá lạnh khiến con người phải dựa vào công trình để chắn gió, đồng thời mặc nhiều lớp áo và nhóm lửa sưởi ấm. Ở những vùng giá lạnh như Hokkaido hay nhiều nơi ở châu Âu, công trình thường ưu tiên giữ nhiệt vào mùa đông hơn là thông gió vào mùa hè, vì thế cấu trúc thường nặng nề và kín. Từ đó, không gian bên trong luôn gắn bó, đối thoại với môi trường bên ngoài. Đây lẽ ra phải là nguyên lý hiển nhiên của kiến trúc, nhưng dường như ngày nay nó đang dần bị lãng quên.

Vì vậy, ý tưởng của tôi không dừng lại ở việc tạo ra “không gian bên trong” như mục đích thông thường của kiến trúc, mà còn hướng tới việc hình thành một “bên ngoài” mới ngay trong lòng công trình. Mỗi môi trường khác nhau sẽ sản sinh ra những dạng “bên ngoài” khác nhau, và tôi đặt câu hỏi: liệu có thể kiến tạo một “bên ngoài” độc đáo, tách biệt với khái niệm không gian bên ngoài theo nghĩa truyền thống hay không? Cách tiếp cận của tôi hiện nay là song song tạo dựng cả “không gian bên trong” lẫn “một môi trường bên ngoài mới” ngay trong cấu trúc kiến trúc.

Khung cảnh hoà lẫn với bối cảnh bên ngoài. © 存在建筑

Ông thường sử dụng khái niệm “free architecture, chẳng hạn như trong tiêu đề của các bài báo và triển lãm. Kiến trúc sư hiểu khái niệm này như thế nào?

Khi thiết kế, tôi luôn tự hỏi vai trò của mình trong thời đại này là gì. Tôi học kiến trúc vào cuối thế kỷ 20, thời điểm mà ở Nhật Bản, các kiến trúc sư chủ yếu được đào tạo dựa trên lý thuyết hiện đại. Kiến trúc hiện đại có nhiều cách định nghĩa, nhưng với tôi, có thể hiểu ngắn gọn như một “sản phẩm của sản xuất hàng loạt”, tức là ý tưởng thiết kế công trình dành cho một tập thể đông đảo người sử dụng. Ví dụ, khi các khuôn mẫu xây dựng cho văn phòng được thiết lập, thì những công trình sử dụng khuôn mẫu đó thường có cách sử dụng giống nhau. Điều này bảo đảm cho kiến trúc sư một mức độ chất lượng và hiệu quả nhất định. Các kiến trúc sư thế kỷ 20 thường coi đám đông là đối tượng phục vụ, và tìm cách vẽ ra một viễn cảnh tương lai tốt đẹp cho tất cả mọi người. Những người cùng thời với tôi thường hướng đến một hình thức duy nhất, được xem như giải pháp lý tưởng cho kiến trúc.

Ngày nay thì khác. Kiến trúc vẫn phục vụ cộng đồng rộng lớn, nhưng không ai còn có thể đòi hỏi mọi người phải chia sẻ cùng một ý tưởng hay giá trị. Trái lại, chúng ta buộc phải chấp nhận sự đa dạng của những hệ giá trị khác nhau. Tôi cảm nhận đây đang dần trở thành một sự đồng thuận mới. Ở góc độ này, kiến trúc cần phải đa dạng để có thể đem lại lợi ích cho nhiều người từ những môi trường, quốc gia và vùng miền khác nhau. Một giải pháp duy nhất là không đủ; kiến trúc sư ngày nay nên đưa ra càng nhiều giải pháp khác nhau càng tốt.

Từ đây, ta quay trở lại khái niệm “trí tuệ được gọi là kiến trúc” mà tôi từng nhắc đến. Kiến trúc là sự tích hợp của nhiều loại thông tin: phương pháp, hình thức, kỹ thuật… Nhưng chỉ dựa trên tập hợp thông tin ấy thì khó lòng đáp ứng được sự đa dạng giá trị của con người. Ở một mức nào đó, kiến trúc cần được soi chiếu từ một góc nhìn bên ngoài chính khuôn khổ của nó. Góc nhìn này có thể gọi là “lĩnh vực tự do”.

Xem xét “lĩnh vực tự do” không có nghĩa là phủ nhận trí tuệ trong kiến trúc, mà là tìm về hình thức nguyên sơ của công trình, để từ đó tạo ra tác phẩm trong thế cân bằng giữa trí tuệ và tự do. Tôi tin rằng sự cân bằng này chính là “tự do”, và đó là điều tôi đang theo đuổi.

Cửa hàng gồm năm bàn dài (dạng dầm) cung cấp không gian chức năng phục vụ vận hành.
© Eiichi Kano

Nhân nói về “tự do kiến trúc”, tạp chí a+u đăng bài về ông (11.2024), trong đó kiến trúc sư có đề cập về “khoảng cách với trí tuệ kiến trúc”. Đây dường như là một khái niệm sâu sắc, kiến trúc sư có thể giải thích thêm không?

Kiến trúc nói chung đã phát triển nhờ việc kế thừa các kỹ thuật và kinh nghiệm từ thời cổ đại. Nếu gọi những tri thức như phương pháp xây dựng, hình thức mái nhà truyền thống, mặt bằng hay cách mở cửa được truyền lại từ quá khứ là “trí tuệ (được gọi là) kiến trúc”, thì việc sử dụng chúng trong xây dựng quả thực vô cùng quan trọng. Nói cách khác, các phương pháp và hình thức cổ xưa, như mái nhà truyền thống, đã trở thành những khuôn mẫu cố định, giúp việc thiết kế và xây dựng trở nên hiệu quả. Con người có thể dựng nên một ngôi nhà hoàn chỉnh chỉ bằng cách lặp lại và áp dụng các hình thức này. Từ góc độ này, tri thức về kiến trúc là điều không thể thiếu. Tuy nhiên, dù những tri thức ấy có thay đổi và cải thiện theo thời gian, nếu kiến trúc sư chỉ gắn bó với khuôn khổ vốn có, họ sẽ khó lòng phản ánh được những lối sống mới, những hình thức văn hóa mới và những giá trị mới đang nảy sinh trong xã hội.

Nếu muốn có một tầm nhìn tự do hơn để hình dung kiến trúc mới, dựa trên sự đa dạng về giá trị và văn hóa từ khắp nơi trên thế giới, kiến trúc sư cần giữ một khoảng cách nhất định với khung tri thức sẵn có. Họ có thể lấy đời sống địa phương và nhiều yếu tố khác làm điểm khởi đầu để suy nghĩ, từ đó dần định hình nên một hình thức kiến trúc mới. Tôi cho rằng điều này rất quan trọng.

Vì vậy, tôi không hề phủ nhận tầm quan trọng của trí tuệ (được gọi là) kiến trúc. Nó tất nhiên là nền tảng không thể thiếu. Nhưng đồng thời, việc suy nghĩ từ một góc nhìn phi kiến trúc và giữ một khoảng cách nhất định với kho tri thức đó cũng quan trọng không kém.

Suy nghĩ của ông về tính thời gian của kiến trúc là gì?

Tôi chắc chắn cảm nhận được sức hút của những công trình mới, nhưng bản thân lại gắn bó nhiều hơn với trạng thái tâm trí nảy sinh từ chiều sâu và sự ấm áp mà thời gian đã bồi đắp cho một công trình. Tôi muốn tìm kiếm và khám phá sức hút đặc biệt đó, vốn là thứ hiếm khi hiện diện trong những kiến trúc mới xây.

Nhưng với kiến trúc sư, ngoài việc cải tạo, họ vẫn phải tạo dựng những công trình mới – vốn luôn mang trong mình cảm giác nhân tạo rất rõ rệt. Sức hút của các công trình cũ nằm ở chỗ: sau khi hoàn thành dưới bàn tay kiến trúc sư, chúng tiếp tục chịu tác động của tự nhiên, sự phong hóa, mục nát, cùng những dấu vết sử dụng đa dạng. Chính sự tích lũy ấy đã tạo chiều sâu cho công trình và nuôi dưỡng cảm giác gắn bó, thân mật với con người.

Vậy liệu kiến trúc sư có thể đưa phẩm chất này vào các công trình mới hay không? Tôi luôn trăn trở về việc làm thế nào để “vẻ đẹp của sự lão hóa” không chỉ là đặc quyền của những công trình cũ, mà có thể hiện diện ngay từ khi một công trình mới được hình thành, thông qua tư duy và ý tưởng của người thiết kế.

Các tác phẩm của ông chứa đựng những yếu tố mà kiến trúc sư thấy không thể kiểm soát, và cả những yếu tố ông cố ý để không thể kiểm soát, điều này dường như mang lại cho các tác phẩm của ông một tính cách nghệ thuật. Ngoài kiến trúc, ông còn thiết kế các tác phẩm nghệ thuật như Cloud Arch. Theo kiến trúc sư, có sự khác biệt nào giữa kiến trúc và nghệ thuật không?

Tôi cho rằng có một sự khác biệt rõ rệt. Với Cloud Arch và những dự án tương tự, tôi không xem chúng như các tác phẩm nghệ thuật, mà coi đó là kiến trúc. Nghệ thuật rất khó định nghĩa, nhưng tôi tin rằng một trong những đặc điểm cốt lõi của nó là sự biểu đạt những khái niệm nằm trong tâm trí của nghệ sĩ.

Kiến trúc sư thì khác. Họ cũng có thể thể hiện những ý tưởng của riêng mình, nhưng quan trọng hơn, họ phải hình thành khái niệm dựa trên thông tin từ thế giới bên ngoài, rồi chuyển hóa chúng thành thực thể. Ở góc độ này, nếu nghệ sĩ chủ yếu bộc lộ suy nghĩ nội tâm, thì kiến trúc sư lại phân tích và diễn giải những dữ liệu từ bên ngoài, để rồi biến chúng thành khái niệm và hiện thực hóa bằng hình khối. Đó là sự khác biệt căn bản.

Do đó, những gì một kiến trúc sư tạo ra luôn thay đổi theo địa điểm, theo khách hàng và chịu tác động từ môi trường văn hóa. Đây là yếu tố rất quan trọng. Với một nghệ sĩ, tác phẩm của họ có thể giữ nguyên phong cách, gần như giống nhau, bất kể sáng tác ở đâu. Nhưng với một kiến trúc sư, công trình luôn biến đổi theo điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài. Tôi cho rằng đó chính là sự khác biệt cốt lõi.

Ông nghĩ rằng nỗ lực của các kiến trúc sư có thể mang lại những thay đổi và tác động gì đến mối quan hệ của kiến trúc với xã hội và thế giới?

Về cơ bản, kiến trúc tự thân nó không thể trực tiếp tạo ra ảnh hưởng lên xã hội hay thế giới. Tuy vậy, kiến trúc lại là một trong những môi trường nền tảng mà con người sinh sống, và chính khái niệm về kiến trúc tác động mạnh mẽ đến đời sống và văn hóa. Ngay cả một ngôi nhà giản dị, nơi một gia đình gắn bó cả đời, cũng sẽ in dấu trong tâm trí và cơ thể của họ qua những trải nghiệm lặp đi lặp lại mỗi ngày.

Ảnh hưởng của kiến trúc đến từng cá nhân, khi cộng gộp lại, sẽ hình thành nên xã hội. Trước đây ở Nhật Bản, chẳng hạn, mọi người đều ngồi nghỉ ngơi trên cùng một hiên nhà, cùng đi qua đó để đến phòng tắm, cùng chia sẻ một mô hình kiến trúc tương tự. Chính kiến trúc ấy đã định hình cách con người cảm nhận về cảnh quan, về các mùa, và cả cách họ sống trong không gian. Có thể nói rằng, nếu kiến trúc được sinh ra từ cuộc sống, thì ngược lại, mỗi công trình, trong hình thức của nó, cũng luôn hướng đến việc tác động ngược trở lại đời sống, và tập hợp những ảnh hưởng đó chính là cái tạo nên xã hội. Kiến trúc, theo cách này, định hình tâm lý cá nhân, và từ đó, hình thành cộng đồng.

Nhìn từ một phía, xã hội có thể được cấu thành bởi những thành phố lớn, những công trình quy mô. Nhưng nhìn từ một phía khác, chính một ngôi nhà nhỏ, hay thậm chí chỉ là cách sắp đặt đồ đạc bên trong, cũng tác động trực tiếp đến môi trường tinh thần của mỗi cá nhân. Và khi những mảnh tác động nhỏ bé đó kết nối lại, chúng góp phần xây dựng toàn bộ xã hội.

Ông có thể nói về các dự án đang thực hiện của mình không? Có lĩnh vực mới nào ông muốn thử thách trong tương lai không?

Dự án lớn mà tôi đang thực hiện hiện nay là Nhà hát Nghệ thuật Văn hóa Tokushima. Trước đây, tôi từng tham gia các dự án quy mô lớn ở nước ngoài, như tại New York hay Nga, còn trong khu vực đô thị, phần lớn công việc của tôi tại Nhật Bản chỉ dừng ở cải tạo. Đây là lần đầu tiên tôi thực hiện một dự án quy mô lớn trong lòng đô thị Nhật, vì thế nó khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Chúng tôi đã thắng cuộc thi vào thời điểm đại dịch, và tất nhiên, giống như mọi dự án khác, tôi đặt môi trường và cảnh quan lên ưu tiên hàng đầu trong thiết kế. Đồng thời, tôi đặc biệt quan tâm đến cách con người tụ họp – nhất là trong bối cảnh mọi người không thể ra ngoài nhiều như họ mong muốn. Đây cũng vẫn là mối bận tâm xuyên suốt của tôi.

Ở Nhật Bản, các công trình công cộng thường rơi vào hai thái cực: hoặc hoàn toàn kín, hoặc hoàn toàn mở. Kiểu không gian bán lộ thiên khá hiếm, có lẽ do yếu tố quản lý. Nhưng đại dịch đã làm dấy lên nhu cầu cải thiện khả năng thông gió của các địa điểm công cộng. Trong khi đó, văn hóa tụ họp trong không gian bán lộ thiên vốn dần phai nhạt nhiều năm qua, nay lại được nhìn nhận như một giá trị đáng trân trọng, bởi nó vốn đã tồn tại trong nền tảng xã hội. Trong bối cảnh này, cho dù ta quan sát cách con người tụ họp tại các địa điểm công cộng ở Nhật, hay hình dung thế giới tương lai, thì “sự tự do trong hiện hữu” luôn được coi trọng.

Thay vì chỉ nhìn kiến trúc như cảnh quan hoặc như một phong cách, tôi cho rằng cần phải cân nhắc cách con người có thể tụ họp và cùng nhau chia sẻ không gian. Với dự án này, tôi muốn khai mở kiến trúc từ một góc nhìn căn bản hơn, thiết yếu hơn.