Steven Holl Architects

Steven Holl (sinh năm 1947) là một trong những kiến trúc sư đương đại có ảnh hưởng nhất của Hoa Kỳ, được biết đến với tư duy triết học sâu sắc và cách tiếp cận kiến trúc như một sự tổng hòa giữa ánh sáng, vật liệu, tỷ lệ và trải nghiệm không gian. Ông thành lập Steven Holl Architects tại New York năm 1976, và từ đó thực hiện nhiều công trình tiêu biểu trên toàn thế giới, từ các bảo tàng, trường đại học cho đến nhà ở và công trình văn hóa.

Triết lý của Holl thường xoay quanh mối quan hệ giữa cơ thể con người và môi trường, sự kết nối giữa cảm quan và khái niệm, đồng thời nhấn mạnh vai trò của ánh sáng tự nhiên như một “vật liệu xây dựng” cơ bản.

Cuộc trò chuyện này khá dài và dày thông tin, một cơ hội nữa kiến trúc sư chia sẻ tư tưởng và ngôn ngữ kiến trúc của ông với cộng đồng qua trải nghiệm thực hành của bản thân.

Steven Holl ở Rome.
Áp phích triển lãm của Steven Holl tại MoMA

Sau khi học kiến trúc tại châu Âu, ông thành lập SHA ở New York và phát triển thành một công ty thiết kế kiến trúc tầm quốc tế. Ông chia sự nghiệp kiến trúc của mình thành những giai đoạn nào? Tư tưởng hoặc niềm tin bất biến nào dẫn dắt ông trong suốt quá trình hành nghề? Sau hàng thập kỷ làm việc ở nhiều quốc gia, triết lý thiết kế của ông đã thay đổi như thế nào?

Đây là một câu hỏi mà có lẽ cần cả một cuốn sách mới trả lời đầy đủ. Nhưng tôi có thể nói rằng thời gian học tập ở Rome là một giai đoạn đặc biệt quan trọng. Năm 1970, khi tôi rời Đại học Washington để đến sống tại Rome, đó là một bước ngoặt lớn, đánh dấu sự phát triển quan trọng trong tư duy của tôi. Sau đó, tôi làm việc tại Hiệp hội Kiến trúc ở London, nơi tôi gặp Zaha Hadid (chúng tôi là bạn suốt đời), Charles Jencks, Elia Zenghelis, Rem Koolhaas cùng nhiều người khác.

Tôi mở văn phòng riêng tại New York vào năm 1977. Lúc đó, hoạt động chính của tôi vẫn là giảng dạy và viết lách. Đến năm 1986, tôi xây dựng một ngôi nhà nhỏ ở Martha’s Vineyard. Trong thời gian này, tôi tham gia nhiều cuộc thi kiến trúc và từng thắng cuộc thi Thư viện Berlin, nhưng dự án đã không được xây dựng do một vụ tấn công xảy ra ở Berlin năm 1988. Tôi cho rằng chiến thắng trong cuộc thi Bảo tàng KIASMA tại Helsinki năm 1994 chính là khởi đầu giúp tôi duy trì văn phòng với ít nhất năm hoặc sáu cộng sự.

Một dấu mốc khác là năm 1989, khi tôi 41 tuổi, tôi tổ chức triển lãm tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA). Cho dịp này, tôi đã viết một bản tuyên ngôn mang tên Anchoring, với quan điểm rằng mỗi công trình phải được phát triển từ bối cảnh, hoàn cảnh và văn hóa của nơi chốn. Mỗi dự án cần một ý tưởng độc đáo để gắn kết mọi hiện tượng kiến trúc thành một tổng thể.

Đến nay, tôi đã viết năm cuốn sách: cuốn đầu tiên Anchoring, tiếp theo là Intertwining, rồi House, Urbanisms: Working with Doubt, và gần đây nhất là Compression, trong đó tôi đưa ra một số ý tưởng liên quan đến các phát hiện mới trong thần kinh học. Tất cả các cuốn sách đều có cùng định dạng, nối tiếp và phát triển những tư tưởng đã được đặt nền tảng trong bản tuyên ngôn duy nhất mà tôi viết năm 1989, Anchoring.

5 cuốn sách được viết bởi Steven Holl.
Các dự án quan trọng được Steven Holl thiết kế trong giai đoạn đầu sự nghiệp.
Không gian công cộng hình tròn giống như đồng hồ. Ảnh: ©AOG Vision

Trong suốt quá trình hành nghề kiến trúc, làm thế nào ông luôn tìm được nguồn cảm hứng thiết kế mới và duy trì được tư duy “sáng tạo vượt ngoài khuôn khổ”?

Một trong những nguyên tắc cốt lõi trong Anchoring là mỗi địa điểm và hoàn cảnh đều mang tính độc nhất. Khi tôi làm việc ở một nền văn hóa như Cộng hòa Séc, trải nghiệm đó rất khác so với khi làm việc ở Ý, Mỹ hay Trung Quốc. Mỗi nơi chốn đều đặt ra những điều kiện riêng, vì vậy cần có một giai đoạn nghiên cứu kỹ lưỡng, và từ đó hình thành một ý tưởng mới để dẫn dắt thiết kế. Với tôi, việc có một ý tưởng hoặc một khái niệm làm trục xuyên suốt cho thiết kế là vô cùng quan trọng, dù không hề dễ dàng. Nó đòi hỏi nhiều suy nghĩ và sự chuẩn bị. Tôi không bao giờ tìm cách lặp lại một phong cách từ dự án này sang dự án khác.

Mỗi công trình phải có một ý tưởng độc đáo, và đó chính là thách thức ở từng dự án. Nếu nhìn vào các công trình của chúng tôi, bạn sẽ thấy sự đa dạng trong ý tưởng. Hiện tại, tôi đặc biệt háo hức với một dự án sắp khai trương ở Thượng Hải: Trung tâm Văn hóa và Y tế COFCO. Dự án này xoay quanh việc kiến tạo một không gian tròn lớn cùng những khu vườn hình tròn, một ý tưởng mà trước đây tôi chưa từng thử nghiệm. Nó được gợi mở từ văn bản của triết gia Karl Popper: đồng hồ và mây. Không gian công cộng chính, nằm giữa tòa nhà y tế và tòa nhà văn hóa, được tổ chức như một chiếc đồng hồ với hình khối tròn giản đơn, đó là hạt nhân của ý tưởng. Các phần còn lại lại giống như mây: bị cắt, uốn lượn, mang những hình thái bất định.

Khởi đầu, ý tưởng chỉ đến từ một bản phác thảo màu nước rất nhỏ, không lớn hơn khổ B6. Tôi đã vẽ nó tại Rhinebeck rồi gửi sang văn phòng ở Bắc Kinh. Roberto, cộng sự thân cận và đối tác của tôi tại đây, đã phát triển bản vẽ chi tiết và trực tiếp giám sát công trường. Giờ đây, công trình sắp hoàn tất, trở thành một minh chứng sống động cho cách chúng tôi làm việc.

Tôi chỉ đến địa điểm một lần, ngay từ khi dự án mới bắt đầu. Tôi đã thấy con kênh, quan sát mối quan hệ giữa tòa nhà mới và khu nhà ở vốn dĩ khá đơn điệu xung quanh. Từ đó, tôi trở về, phát triển ý tưởng, và giờ nó đã trở thành hiện thực. Tôi rất tự hào, vì đây là thành quả của tinh thần làm việc nhóm. Không chỉ có tôi, mà còn có mười đến mười hai người trong văn phòng Bắc Kinh đã miệt mài thực hiện. Trong suốt quá trình, chúng tôi luôn trao đổi qua lại giữa New York và Bắc Kinh, và tôi theo dõi mọi chi tiết của dự án. Với tôi, trong bối cảnh hiện nay, một ý tưởng độc đáo hoàn toàn có thể là động lực biến một thiết kế thành một công trình xuất sắc.

Bản phác thảo ý tưởng cho Trung tâm Văn hóa và Y tế COFCO Thượng Hải, lấy cảm hứng từ Đồng hồ và Mây. Ảnh: ©Steven Holl
Không gian công cộng hình tròn giống như đồng hồ. Ảnh: ©AOG Vision

Những bức tranh màu nước dường như luôn là một phần trong công việc hằng ngày của ông, đồng thời cũng là điểm khởi đầu của mỗi dự án. Điều gì khiến ông say mê với chất liệu này Trong quá trình chuyển từ phác thảo sang một phương án kiến trúc hoàn chỉnh, những yếu tố nào được giữ lại và những gì sẽ bị loại bỏ? Khi khởi động một dự án, ông thường đưa ra một số từ khóa hoặc mục tiêu thiết kế, vậy những khái niệm này được xác định như thế nào, và mối liên hệ giữa các bản phác thảo màu nước với hệ khái niệm của ông được hình thành ra sao?

Tôi có thể đặt trọn vẹn một công trình, từ ý tưởng, mặt đứng, mặt bằng, cho đến khái niệm và mọi yếu tố của dự án trên một cuốn sổ nhỏ khổ 5×7 inch, chỉ bằng bàn tay. Tôi có thể mang nó lên máy bay và làm việc bất cứ lúc nào. Chỉ trong vòng 15 phút, tôi có thể nhanh chóng ghi lại một ý tưởng: ánh sáng sẽ đi vào từ đâu, màu sắc có thể như thế nào, thậm chí cả chất liệu. Trước đây, tôi từng vẽ những bức tranh lớn mất hàng tuần để hoàn thiện. Nhưng từ năm 1980, tôi đã chuyển hẳn sang định dạng nhỏ này. Giờ đây, tôi có bản vẽ gốc của tất cả công trình mình thực hiện, đều lưu giữ trong những cuốn sổ ấy.

Việc chuyển các phác thảo màu nước thành phương án kiến trúc là một quá trình phát triển liên tục. Không có gì bị bỏ đi cả. Chúng giống như một hạt giống bắt đầu nảy mầm, cần được nuôi dưỡng, chăm sóc. Nó phát triển như một cơ thể sống: phải được tưới nước, bổ sung thêm thông tin và dẫn dắt. Khi mới bắt đầu, đó chỉ là một hạt giống ý tưởng; nhưng trong quá trình triển khai, tôi liên tục thêm thắt chi tiết. Ngay cả một dự án nhỏ cũng chứa đựng vô vàn chi tiết được suy nghĩ và bổ sung trong suốt quá trình kéo dài có thể tới hai năm.

Tôi cho rằng việc đọc song song triết học, thơ ca và văn học trong khi hành nghề kiến trúc là rất quan trọng. Nó bồi đắp tâm trí bằng nhiều lớp ý tưởng khác nhau. Đôi khi, tôi còn ghi chú các từ khóa ngay trên trang sổ, bên cạnh bức tranh màu nước, và những yếu tố ấy hòa quyện, nâng đỡ lẫn nhau.

Trung tâm Văn hóa và Y tế COFCO Thượng Hải.
Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Houston

Simmons Hall

Linked Hybrid

Trong các thiết kế của ông, tính chuyển động của kiến trúc luôn được đặt lên hàng đầu. Ở chiều ngược lại, môi trường kiến trúc cũng tác động mạnh mẽ đến hành vi của người sử dụng. Vậy ông kỳ vọng mối quan hệ giữa cảm nhận cơ bản của con người về không gian và việc kiến tạo những trải nghiệm không gian mới sẽ được hình thành và phát triển như thế nào?

Các công trình của tôi là những cống hiến về không gian, ánh sáng và góc nhìn. Chúng được tạo ra để trở thành chất xúc tác cho cách con người sử dụng, nhưng không có một kịch bản nào xác định trước việc sử dụng đó sẽ diễn ra ra sao. Tôi tin rằng trải nghiệm và cách con người tương tác với không gian luôn mang tính cá nhân, và chúng sẽ thay đổi, biến chuyển theo thời gian.

Nếu bạn tạo nên một không gian tuyệt vời như một căn phòng với trần cao vừa đủ, cửa sổ rộng và thông gió tự nhiên thì nó có thể bắt đầu là một ngôi nhà. Nhưng cũng chính không gian ấy có thể trở thành một trường học, vì nó có thể là một lớp học tuyệt vời, hoặc trở thành một thư viện.

Tôi không đồng tình với quan niệm hiện đại cho rằng “chức năng dẫn dắt thiết kế”. Với tôi, điều cốt lõi là chất thơ của không gian, là sự tự thân của chi tiết và vật liệu. Chức năng chỉ là nhất thời: nhiều chức năng tồn tại cách đây 150 năm giờ đã biến mất. Còn kiến trúc, giống như âm nhạc, là một hình thức nghệ thuật mang lại niềm vui cho đời sống. Bắt đầu thiết kế từ chức năng và tin rằng điều đó sẽ tạo ra kiến trúc, theo tôi, là một cách tiếp cận sai lầm. Dĩ nhiên, công trình phải vận hành tốt và chức năng cần được giải quyết, nhưng đó không thể là động lực chính. Cần có một ý tưởng khác, một ý tưởng mang tính thi ca để dẫn dắt toàn bộ thiết kế.

Bên ngoài toà nhà Simmons Hall ©Andy Ryan
Hướng nhìn lên Simmons Hall qua các lỗ hở trên mái hiên. Ảnh: ©Paul Warchol

Không gian công cộng ở Simmons Hall. Ảnh: ©Andy Ryan

Ông đã làm thế nào để đạt được tính “phi tỷ lệ” trong thiết kế, nhằm phù hợp với cảm nhận của con người trước những không gian có tỷ lệ khác nhau?

Một trong những dự án tôi yêu thích nhất về mặt tỷ lệ là ký túc xá Simmons Hall tại MIT, Boston. Từ xa nhìn lại, công trình mang dáng vẻ khổng lồ, tựa như một tòa nhà ba mươi tầng, nhưng thực tế nó chỉ cao mười tầng. Khi tiến lại gần, bạn sẽ nhận ra mỗi ô cửa sổ chỉ cao khoảng 60 cm, và mỗi phòng có tới chín ô cửa sổ. Công trình được xây dựng bằng cấu trúc khung xương ngoài bê tông đúc sẵn, mà tôi phát triển cùng kỹ sư Guy Nordenson. Chính cấu trúc này tạo ra một cảm giác bí ẩn về quy mô thực sự, và tôi cho rằng sự bí ẩn ấy chính là điều mang lại tính vui tươi.

Thực tế, các sinh viên đã sáng tác hẳn một vở opera mang tên O Spongy-Sponge để nói về công trình. Nếu tìm trên YouTube, bạn có thể thấy nhiều video do sinh viên tự thực hiện. Simmons Hall là ký túc xá với 350 phòng cho 350 sinh viên. Đây là một minh chứng rõ rệt cho cách tôi để một ý tưởng dẫn dắt thiết kế, biến công trình trở thành một sự hiện diện vừa vui tươi vừa gần như mang tính thi ca.

Dự án gắn liền với nhiều yếu tố: cấu trúc, ánh sáng tự nhiên trong từng phòng, thông gió, và đặc biệt là chín ô cửa sổ thay vì chỉ một hoặc hai như thông thường. Đến nay, công trình đã tồn tại được 20 năm, vẫn hoạt động rất tốt và trông vẫn đẹp. Nếu có dịp đến Boston, bạn nên ghé thăm Simmons Hall. Đó là một ví dụ cho những gì mà tôi tin rằng kiến trúc có thể mang lại.

Bên ngoài Bảo tàng Mỹ thuật Kinder Building Houston. Ảnh: ©Iwan Baan
Cảnh đêm, ánh sáng phát ra qua các diện kính mặt tiền. Ảnh: ©Iwan Baan

Tiền sảnh, ánh sáng mặt trời tràn vào bên trong qua mái vòm. Ảnh: ©Iwan Baan

Bản phác thảo thiết kế cho Bảo tàng Cassino ©Steven Holl

Bản phác thảo thiết kế cho Bảo tàng Cassino ©Steven Holl

Ánh sáng luôn là một trong những yếu tố trung tâm trong các thiết kế của ông. Vậy ông nhìn nhận ý nghĩa của ánh sáng trong việc định hình không gian như thế nào? Khi triển khai những dự án ở các quy mô khác nhau, ông thường cân nhắc ra sao trong việc kiến tạo môi trường ánh sáng?

Chúng tôi vừa hoàn thành Bảo tàng Mỹ thuật ở Houston, dự án được lấy cảm hứng từ bầu trời rộng lớn và những đám mây của Texas, cũng như cách ánh sáng đi vào không gian. Tôi gọi phần mái công trình là một “tán sáng”, nơi ánh sáng đi qua các khe hở và trượt trên bề mặt dưới của những hình khối giống như mây. Ánh sáng đóng vai trò then chốt trong dự án này, và tôi tin rằng trong bất kỳ bảo tàng nào, khả năng đưa ánh sáng tự nhiên vào không gian đều rất quan trọng. Toàn bộ công trình được bao bọc trong những ống kính phát sáng đường kính 30 inch, mà chúng tôi gọi là “áo khoác lạnh”. Các ống này hấp thụ ánh sáng mặt trời ở Texas, đồng thời dẫn khí nóng thoát lên phía trên, giúp tiết kiệm năng lượng và giảm đến 90% lượng nhiệt mặt trời. Vào ban đêm, khi nhìn từ bên ngoài, các ống kính này tiếp tục tạo nên một hiệu ứng ánh sáng đặc biệt cho công trình.

Hơn 20 năm trước, tôi cũng đã thiết kế một bảo tàng ở Cassino, Ý, mà tôi gọi là “bản nhạc của ánh sáng”. Toàn bộ công trình xoay quanh cách ánh sáng được dẫn dắt để đi vào các phòng trưng bày theo nhiều phương thức khác nhau. Dù dự án chưa từng được xây dựng, hiện nay khách hàng đang cân nhắc tài trợ để khởi công, và thị trấn Cassino sẽ tổ chức một cuộc họp về việc này. Thiết kế đó đã được thực hiện cách đây 22 năm, nhưng với tôi, khoảng thời gian ấy không hề quan trọng. Tôi không chạy theo phong cách hay xu hướng nhất thời trong kiến trúc. Kiến trúc trải qua nhiều trào lưu, và người ta thậm chí có thể đoán niên đại của công trình qua phong cách. Tôi thì không làm việc theo cách đó. Vì vậy, tôi hoàn toàn có thể nhìn lại một công trình từ 22 năm trước và nói: “Vâng, tôi muốn xây dựng nó, đúng như cách tôi đã vẽ vào lúc ấy.”

Tất nhiên, việc thiết kế ánh sáng phải thay đổi theo quy mô. Ở tầm đô thị, tôi tin rằng các tòa nhà chọc trời không nên đặt quá gần nhau, đây thực sự là một sai lầm. Thành phố cần ánh sáng mặt trời đi xuống đường phố. Trong dự án ở Thành Đô, mà chúng tôi gọi là Khối Đa xốp Cắt lát, toàn bộ hình khối công trình được tạo ra từ biểu đồ góc chiếu của mặt trời, để bảo đảm ánh sáng đến được đường phố và các khu nhà lân cận. Trung tâm công trình là một không gian công cộng với các khu vườn nước.

Với tôi, ánh sáng đô thị là yếu tố cốt lõi. Ở New York, tình hình lại là một thảm họa. Tại Hudson Yards, các tòa tháp được xây quá gần nhau, khiến toàn bộ khu vực luôn chìm trong bóng râm, gần như không có ánh sáng mặt trời. Đó là ví dụ điển hình cho một tương lai đô thị sai lầm, nơi tất cả chỉ xoay quanh lòng tham của các nhà phát triển. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng trên thế giới sẽ không có nhiều thành phố đi theo hình mẫu ấy. Hudson Yards nằm ngay đối diện văn phòng của tôi, và tôi cho rằng đó có lẽ là một trong những hình thức đô thị tồi tệ nhất mà người ta có thể tạo ra: quá gần nhau, quá thiếu ánh sáng. Ánh sáng, với tôi, là yếu tố sống còn của thành phố.

Hiệu ứng ánh sáng ở các không gian khác nhau. ©Steven Holl Architects

Phác thảo thiết kế công trình Sliced Porosity Block ©Steven Holl
Góc nhìn bên ngoài của Sliced Porosity Block ©Shu He
Tòa nhà Kinder Bảo tàng Mỹ thuật Houston, bê tông lộ ra phía vườn. Ảnh: ©Richard Barnes

Nhà nguyện St. Ignatius làm bằng bê tông.
Ảnh: ©Steven Holl Architects

Không gian bên trong nhà nguyện.
Ảnh: ©Steven Holl Architects

Phác thảo thiết kế cho Tòa nhà Nghệ thuật Thị giác Franklin & Marshall Winter. ©Steven Holl

Bên ngoài Tòa nhà Nghệ thuật Thị giác Franklin & Marshall Winter. Ảnh: ©Paul Warchol

Phác thảo thiết kế cho Obolin. ©Steven Holl

Bên ngoài tác phẩm điêu khắc Obolin.
Ảnh: ©Steven Holl Architects

Trong những dự án đầu tiên, ông thường ưu tiên các vật liệu và gam màu nặng như gạch hay gỗ. Nhưng ở những công trình gần đây, chúng tôi nhận thấy ông sử dụng nhiều vật liệu trong suốt, bán trong suốt hơn, cùng với bảng màu tươi sáng hơn. Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong lựa chọn vật liệu và màu sắc của ông?

Như tôi đã nói, mỗi dự án đều có hoàn cảnh riêng. Ở Texas, tôi cần đến “áo khoác lạnh” để giảm thiểu sức nóng mặt trời tác động lên công trình. Phía sau lớp vỏ ấy vẫn là kết cấu bê tông, và tôi để lộ chất liệu này ở các khu vườn nước. Tất cả đều xuất phát từ yêu cầu cụ thể của địa điểm. Tôi vẫn rất trân trọng Nhà nguyện St. Ignatius, công trình được xây dựng hoàn toàn bằng bê tông đúc nghiêng. Đó là một khí hậu hoàn toàn khác, cùng một chương trình chức năng khác. Tôi không nghĩ rằng phong cách của mình đã thay đổi; chỉ là những hoàn cảnh khác nhau luôn đòi hỏi những cách tiếp cận khác nhau.

Trong nhiều dự án của ông, các yếu tố như mái lõm và tường cong thường xuyên xuất hiện, chẳng hạn ở Tòa nhà Nghệ thuật Thị giác Mùa đông Franklin & Marshall tại Lancaster hay Trung tâm Văn hóa và Y tế COFCO ở Thượng Hải. Chúng gợi nhớ đến hình ảnh nguyên sơ của một “chiếc lều”. Vì sao ông lựa chọn hình thức kiến trúc này trong thiết kế của mình? Và quan điểm của ông về hình thức trong kiến trúc là gì?

Hai ví dụ này thực ra xuất phát từ những ý tưởng hoàn toàn khác nhau.

Ở Đại học Franklin & Marshall, tôi bắt đầu từ những hàng cây cổ thụ trong khuôn viên, với đường kính thân lên tới 3–4 feet. Trong một bản phác thảo khái niệm, khi vẽ một vòng tròn quanh đường nhỏ giọt của tán cây, nó đã tạo nên những hình dạng lõm. Như vậy, chính vị trí và hình dáng của cây cối đã định hình nên công trình. Các mặt cong ở đây đều là mặt phẳng, gắn chặt với ý niệm về cây. Bản thân công trình được nâng lên khỏi mặt đất, giống như một cánh diều, cho phép tầm nhìn xuyên suốt xuống Công viên Buchanan.

Trường hợp của COFCO ở Thượng Hải lại hoàn toàn khác, xuất phát từ ý tưởng “đồng hồ và mây”. Những đường cong trong dự án này được hình thành như những vết cắt mở ra phía bầu trời, gợi cảm giác như khi bạn nhìn qua những khoảng hở trong mây để thấy bầu trời xanh. Ở đây, hình học không còn là mặt phẳng nữa, mà mang tính ba chiều, với sự chuyển động và biến đổi liên tục.

Ex of In House là một dự án khai thác khái niệm “TRONG”, với hình học được hình thành từ sự giao thoa của các không gian hình cầu và các hình thang tesseract, và cách tiếp cận này cũng được thể hiện trong thiết kế của OBOLIN. Chiến lược ấy đã lật đổ không gian kiến trúc truyền thống theo cách nào? Khi nói về việc khám phá “TRONG”, ông từng nhấn mạnh rằng “nghiên cứu kiến trúc không chỉ đơn thuần là khách quan”. Ông có thể giải thích rõ hơn về cách ông hiểu và lý giải cho tuyên bố này không?

Tôi thật sự ngạc nhiên với những câu hỏi này, chúng rất sắc sảo. Bạn nói đúng: khi tôi thực hiện Obolin như một tác phẩm điêu khắc, trong đầu tôi cũng có những giao điểm hình cầu tương tự như ý tưởng khởi nguồn cho Ex of In House. Tuy nhiên, Obolin ở một cấp độ khác. Nó là một thử nghiệm trong xây dựng bằng CLT, nghĩa là toàn bộ cấu trúc và lớp vỏ đều liền khối, được cắt từ tấm CLT dày và thi công hoàn toàn bằng robot. Chúng tôi đã sử dụng các giao điểm hình cầu để thử xem công nghệ máy móc có thể được đẩy song hành đến đâu với ý tưởng từ bản vẽ.

Obolin, về bản chất, là một tác phẩm điêu khắc thử nghiệm, không lớn về quy mô. Câu hỏi của bạn rất thông minh, vì thực ra đó gần như là cùng một ý tưởng, nhưng xuất hiện trong hai bối cảnh khác nhau. (Điều này cũng có phần mâu thuẫn với điều tôi từng nói trước đó rằng mỗi dự án cần một ý tưởng mới, bởi ở đây tôi đã không làm đúng như vậy.) Ex of In House khai thác cùng một ý tưởng, nhưng với vật liệu khác, trong khi Obolin là một tác phẩm điêu khắc độc lập. Sau khi kết thúc triển lãm tại Art Omi, nó sẽ được chuyển về khu vườn điêu khắc của chúng tôi ở Rhinebeck và lắp đặt cạnh Ex of In House.

Tinh thần của thi ca và âm nhạc vĩ đại chính là sự tự do thoát khỏi những điều hoàn toàn khách quan, và kiến trúc cũng nên được tiếp cận theo cách đó. Điều này đưa tôi quay lại với tuyên bố của mình, cũng như lời Louis Kahn từng nói: chức năng chỉ là “bao nhiêu quả chuối”. Điều mà kiến trúc sư thực sự mang đến cho dự án không phải là chức năng, mà là khả năng kiến tạo những không gian mới. Tôi tin vào kiến trúc, tin vào tính sáng tạo và tương lai của nó. Nhiều năm trước, Giorgio Grassi từng viết “architecture, è lingua morta” – kiến trúc là một ngôn ngữ đã chết. Không ít kiến trúc sư cũng nói rằng: “Chúng ta chẳng phát minh gì cả, chỉ lặp lại thôi.” Tôi hoàn toàn không tin vào điều đó. Tôi tin rằng con người luôn sáng tạo, và đó chính là bản chất của chúng ta. Chính sự sáng tạo này sẽ mở ra con đường cho một tương lai lạc quan.

Tôi tin rằng chúng ta đã có đủ phương tiện để loại bỏ nhiên liệu hóa thạch và các chất gây ô nhiễm. Công nghệ đã sẵn có để cung cấp năng lượng toàn cầu từ các nguồn tái tạo, để dầu mỏ nằm lại trong lòng đất, cải thiện khí quyển. Điều còn thiếu là ý chí, đặc biệt là ý chí chính trị. Tương lai phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của chúng ta, nhưng trên hết là vào sự thay đổi ý chí.

Một trong những điều tôi trân trọng nhất ở Trung Quốc là chúng tôi có thể thực hiện những công trình rất xanh. Linked Hybrid là một ví dụ: công trình có 660 giếng địa nhiệt, sâu 100 mét, để sưởi ấm và làm mát toàn bộ 750 căn hộ. Thành công đó có được vì khách hàng muốn như vậy. Ở Mỹ, tôi thường phải đấu tranh để đưa yếu tố sinh thái vào công trình. Tuy nhiên, tôi tin rằng khi đã xây dựng và chứng minh nó hoạt động hiệu quả, bạn có thể tiếp tục thuyết phục và tiến xa hơn, ngay cả với những khách hàng còn hoài nghi.

Phác thảo thiết kế cho Exof In House. Ảnh: ©Steven Holl

Bên ngoài tòa nhà. Ảnh: ©Iwan Baan
Tạo ra không gian mới thông qua các phương pháp khác nhau. Ảnh: ©Iwan Baan

Phân tích thiết kế sinh thái trong Sliced Porosity Block. Ảnh: ©Steven Holl

Không gian sinh thái trong Linked Hybrid. Ảnh: © Iwan Baan
Phác thảo thiết kế cho Bảo tàng Nghệ thuật Tứ Phương Nam Kinh. Ảnh: ©Steven Holl

Phác thảo thiết kế cho Bảo tàng Thành phố sinh thái Thiên Tân ©Steven Holl

Ý tưởng của “Bau Gua” theo một cách mới ©Steven Holl Architects

Trong Bảo tàng Nghệ thuật Sifang Nam Kinh, ông đã vận dụng khái niệm “góc nhìn phân tán” của hội họa truyền thống Trung Quốc. Còn ở dự án Bảo tàng Sinh thái và Quy hoạch tại Thành phố Sinh thái Thiên Tân, Bảo tàng Sinh thái được hình thành như một sự đảo ngược của không gian cắt ra từ Bảo tàng Quy hoạch, gợi nhắc đến khái niệm Trung Hoa về “Bát Quái” và “Âm Dương”. Vậy ông thường diễn giải văn hóa truyền thống vào trong khái niệm thiết kế của mình như thế nào? Và kiến trúc hiện đại, theo ông, có thể thể hiện tính vùng miền và văn hóa ra sao?

Trong trường hợp của Bảo tàng Nghệ thuật Nam Kinh, tôi đã nhận được sự hỗ trợ từ Li Hu, đối tác của tôi lúc bấy giờ, và Yung Ho Chang khi lần đầu đến địa điểm vào năm 2002. Đây là một bảo tàng không có bộ sưu tập, nên tôi muốn dựa vào những nguyên tắc của hội họa truyền thống Trung Quốc. Ý tưởng về phối cảnh song song xuất phát từ các bức tranh cuộn, nơi không tồn tại điểm tụ duy nhất. Yung Ho Chang và Li Hu đã cùng tôi phát triển những bản phác thảo đầu tiên. Chúng tôi là một nhóm ba người, trong đó có hai người sinh ra tại Trung Quốc, mang trong mình nền tảng văn hóa Trung Hoa.

Còn trong dự án tại Thành phố Sinh thái Thiên Tân, việc vận dụng khái niệm “Bát Quái” và “Âm Dương” là một thử nghiệm táo bạo. Chúng tôi đã hoàn thiện toàn bộ bản vẽ thi công, công trình gần như sẵn sàng để khởi công, với các mô hình mẫu ở tỷ lệ thật bằng gạch trắng và thép không gỉ phun cát. Tuy nhiên, khi tôi đến địa điểm, ban quản lý đã thay giám đốc Thành phố Sinh thái, và vị giám đốc mới từ chối gặp tôi. Chúng tôi đã làm việc nhiều năm, tất cả bản vẽ thi công đều đã hoàn tất cho hai tòa nhà này. Tôi vẫn còn lưu giữ những mô hình lớn trong kho của studio. Đây là một ví dụ cho thấy kiến trúc đôi khi bị thao túng bởi những toan tính chính trị. Nó mang màu sắc bi kịch, nhưng tôi rất vui khi bạn vẫn nhớ đến dự án đó. Tôi luôn mong ước nó được xây dựng.

Theo tôi, không nên gán ghép một cách cứng nhắc những hình ảnh hình học gắn mác “vùng miền”. Thay vào đó, cần thiết kế dựa trên những ý tưởng lịch sử hoặc những tư tưởng có chiều sâu, rồi tìm cách thể hiện chúng trong một hình thức mới. Tôi tin rằng “Bát Quái” và “Âm Dương” trong Bảo tàng Sinh thái Thiên Tân đã thực hiện điều đó bằng những hình thái hoàn toàn mới. Hai công trình được gắn kết với nhau, tạo nên những không gian nội thất tuyệt vời, những khoảng không đáng kinh ngạc, và quan trọng nhất là một mối quan hệ, không phải trực tiếp mà mang tính khái niệm với vùng miền và văn hóa nơi chúng tồn tại.

Bản phác thảo thiết kế cho Trụ sở chính iCarbonX Thâm Quyến. Ảnh: ©Steven Holl

Trong dự án Trụ sở iCarbonX tại Thâm Quyến, hệ thống đường dốc và cầu nối đã đưa các khu vườn lên nhiều cao độ khác nhau, phản ánh rõ nét khái niệm thiết kế sinh thái. Bảo vệ và phục hồi môi trường cũng là một trong những chủ đề ông đặc biệt quan tâm. Vậy theo ông, con người có thể tạo dựng kiến trúc và đô thị với chất lượng sinh thái cao hơn như thế nào, để môi trường nhân tạo có thể chung sống và tồn tại lâu dài cùng thiên nhiên?

Đó là một thách thức vô cùng quan trọng, và tôi tin rằng chúng ta phải tìm mọi cách để khôi phục cảnh quan tự nhiên, bảo vệ nó ở quy mô toàn cầu, đồng thời xây dựng các thành phố với khung sinh thái bền vững hơn, giàu không gian xanh hơn.

Tôi từng có một bài giảng mang tên “Không khí/Ánh sáng/Không gian xanh: Kiến trúc hậu COVID”, trong đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ánh sáng tự nhiên cho mọi không gian, cửa sổ mở để thông gió, hệ thống sưởi và làm mát bằng địa nhiệt, tái chế nước, và sự hiện diện của các khu vườn nước—nơi có ếch, rùa, cùng các loài động vật khác chung sống với con người.

Trong những dự án tôi thực hiện quanh khu vực Round Lake ở Rhinebeck, hầu hết đều có một hồ ếch. Tôi dẫn nước mưa từ mái nhà xuống hồ tái chế này, nơi rùa và ếch sinh sống. Nhờ vậy, chúng ăn muỗi và giúp chúng tôi không gặp vấn đề với côn trùng. Vào mùa đông, nước đóng băng, ếch ẩn dưới đáy; khi mùa xuân đến, băng tan và chúng lại trồi lên mặt nước. Đó là một vòng tuần hoàn của sự sống, một chi tiết rất nhỏ nhưng hoàn toàn có thể đưa vào bất kỳ dự án nào.

Tôi mong rằng trong tương lai, ở quy mô thành phố và đô thị, chúng ta sẽ thấy nhiều phát minh sinh thái hơn, cùng với nhiều nỗ lực hơn trong việc bảo tồn và phục hồi cảnh quan tự nhiên.

Trong số tất cả các dự án mà ông đã thực hiện tại Trung Quốc, đâu là dự án khiến ông cảm thấy hài lòng nhất, và vì sao? Đồng thời, ông đánh giá như thế nào về ngành kiến trúc đương đại tại Trung Quốc hiện nay?

Tôi có cái nhìn phê phán đối với ngành kiến trúc hiện nay ở Trung Quốc. Chúng ta không cần phải phá bỏ các công trình lịch sử để thay thế bằng cái mới. Hoàn toàn có thể để chúng cùng tồn tại. Tôi phản đối sự phá hủy này, vốn thường xuất phát từ các dự án do nhà phát triển dẫn dắt. Theo tôi, chúng ta cần suy nghĩ cẩn trọng hơn về việc tái chế, tái sử dụng và tìm cách để cái mới cùng tồn tại bên cạnh cái cũ. Có gì sai khi một công trình nhỏ đứng cạnh một tòa nhà cao tầng? Sự hiện diện song song của lịch sử và cái mới, theo tôi, mang lại nhiều giá trị và thú vị hơn rất nhiều.

Trong số các dự án ở Trung Quốc, công trình khiến tôi hài lòng nhất là Bảo tàng Nghệ thuật Nam Kinh, bởi đó là thiết kế đầu tiên tôi thực hiện tại đây. Năm 2002, tôi chưa từng có kinh nghiệm xây dựng ở Trung Quốc, nên cơ hội này vô cùng đặc biệt. Tôi biết ơn vì trong suốt 19 năm qua, mình đã được tham gia vào những dự án tuyệt vời tại đất nước này. Tôi nhớ lần đầu đến địa điểm cùng Yung Ho Chang và Li Hu, chúng tôi đã hình thành ý tưởng xuất phát từ sự gắn kết sâu sắc với tranh thủy mặc và nghệ thuật cổ truyền Trung Hoa.

Bảo tàng nghệ thuật Sifang Nam Kinh. Ảnh: ©Shu He

Khi triển khai, chúng tôi sử dụng gạch tái chế từ các khu nhà Hutong bị phá bỏ ở Nam Kinh để lát sân theo mô típ xương cá. Ngay trong khuôn viên còn có một khu vườn nước, nơi toàn bộ nước mưa được dẫn vào và thu lại. Khái niệm phối cảnh song song được thể hiện trong cấu trúc các bức tường, tất cả đều làm từ bê tông đúc bằng khuôn tre lấy trực tiếp tại địa điểm. Tôi đã có ý tưởng này từ năm 2002, nhưng phải mất 10 năm để công trình hoàn thành.

Tôi thực sự tin rằng bảo tàng nhỏ ở Nam Kinh là một minh chứng đa tầng về nhiều khía cạnh: từ ý tưởng, vật liệu, đến mối liên hệ với bối cảnh lịch sử và văn hóa. Và tôi rất tự hào về nó. Tôi không cho rằng một công trình phải lớn mới có thể trở nên quan trọng.

Ông từng nói rằng “kiến trúc luôn nhiều hơn khi bạn trải nghiệm so với khi chỉ nhìn qua hình ảnh hay ảnh chụp”, đồng thời khuyên sinh viên hãy tắt máy tính để trực tiếp đến thăm các công trình. Tuy nhiên, dưới tác động của đại dịch, khi các hoạt động ngoài trời bị hạn chế, internet lại mở ra nhiều cách kết nối mới. Trong bối cảnh như vậy, sinh viên kiến trúc nên làm thế nào để rèn luyện khả năng hiểu và cảm nhận kiến trúc một cách sâu sắc hơn?

Bạn có thể rèn luyện cảm nhận kiến trúc bằng cách xem video. Tôi có một video về Bảo tàng Nam Kinh, trong đó giải thích trọn vẹn khái niệm về phối cảnh song song. Khi xem, bạn sẽ thấy mọi người di chuyển qua những bức tường và không gian dần mở ra. Vì vậy, đừng chỉ nhìn hình ảnh tĩnh, hãy nhìn vào không gian và video cho phép bạn làm điều đó. Nhân tiện, tôi có hơn 16 video về các dự án của mình trên Vimeo (xem tại đây).

Bạn có thể dành vài tuần để xem, và tôi tin rằng trải nghiệm này phong phú hơn nhiều so với việc chỉ nhìn ảnh chụp. Trong các video, trước tiên tôi giải thích khái niệm, sau đó người xem có thể cảm nhận sự chuyển động trong không gian nhờ định dạng động.

Trong thời kỳ đại dịch, chúng ta nên tận dụng tối đa những công nghệ đã phát triển trong 20 năm qua. Tôi tin rằng chúng ta vẫn có thể học được rất nhiều từ xa. Khi dịch bệnh kết thúc, chúng ta có thể quay lại thăm công trình trực tiếp. Có lẽ đây cũng là lúc để suy tư nhiều hơn, triết lý hơn và cân nhắc kỹ bạn muốn đi đâu, thay vì bay khắp nơi một cách ngẫu nhiên. Tôi nghĩ rằng việc học từ những video “bốn chiều” về các công trình mới được xây dựng là rất hữu ích. Bạn vẫn có thể nghiên cứu mặt bằng, mặt cắt, và văn bản trong sách, nhưng video mang lại cảm nhận không gian rõ rệt, nơi một ý tưởng được thể hiện một cách trực tiếp.

Tôi có một ví dụ: video bài giảng năm 2013 nhân dịp khánh thành Trung tâm Thể thao Campbell tại Đại học Columbia, với tựa đề “Drawing as Thought”. Đến nay, nó đã có hơn 80.000 lượt xem trên YouTube. Tôi đã xuất bản nhiều sách, nhưng chưa bao giờ có một ấn bản nào in ra tới 80.000 bản, thường chỉ 5.000, nhiều lắm cũng 10.000 bản cho một cuốn sách kiến trúc. Bạn thấy đấy, với công nghệ hiện tại, nếu muốn truyền đạt một ý tưởng, bạn có thể tiếp cận 80.000 người chỉ trong một video dài 50 phút. Đó là một cách lan tỏa tư tưởng mạnh mẽ.

Vì vậy, tôi khuyến khích các sinh viên ngày nay, trong lúc không thể đi du lịch, hãy nhìn thật kỹ vào những gì đang có sẵn. Có vô số tài liệu, bài giảng quý giá được đưa lên mạng. Thậm chí những bài giảng cũ của Louis Kahn hay Le Corbusier nay cũng đã được chia sẻ lại trên YouTube. Lịch sử vĩ đại của kiến trúc giờ đây có thể được tiếp cận dễ dàng. Hãy tận dụng công nghệ để nghiên cứu sâu sắc những gì vốn đã có trong tầm tay.

Trong tương lai, ông muốn tiếp tục khám phá những lĩnh vực hay chủ đề nào khác trong thực hành kiến trúc của mình?

Trong tương lai, tôi muốn đi sâu hơn vào mối liên hệ triết học trong kiến trúc, làm thế nào để suy nghĩ về nó trong bối cảnh đời sống của nhân loại trên hành tinh này. Làm thế nào để chúng ta coi đa dạng sinh học như một giá trị cốt yếu? Và kiến trúc sư có thể góp phần vào điều đó hay không? Tôi tin là có.

Ví dụ nhỏ nhất chính là những ao ếch mà tôi đã làm. Sự tuyệt chủng của các loài là một cuộc khủng hoảng toàn cầu, và lưỡng cư như ếch, kỳ giông là một trong những nhóm bị đe dọa nhất. Đến nay, tôi đã xây khoảng năm ao ếch, và chúng đã trở thành môi trường sống cho ếch và cả kỳ giông. Bằng cách nhỏ bé đó, tôi cảm thấy mình đang tham gia giải quyết một trong những vấn đề khổng lồ: bảo tồn loài, duy trì đa dạng sinh học, khôi phục và bảo vệ môi trường sống.

Khi tôi làm việc trên dự án Edge of a City vào những năm 1990, tôi đã bàn đến những vùng ngoại ô xuống cấp, và đề xuất tái thiết các khu đô thị mới bằng cách san bỏ, tái trồng cây, phủ xanh những trung tâm mua sắm hay bãi đỗ xe bị bỏ hoang. Dự án ấy đã cách đây 30 năm, nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Tôi nghĩ rằng trong tương lai, các kiến trúc sư phải nuôi dưỡng tinh thần lạc quan. Thế giới ngày nay tràn ngập sự bi quan, nhưng với tư cách là những người kiến tạo, chúng ta cần giữ vững niềm tin và sự sáng tạo. Tôi tin rằng chúng ta có thể hình thành nên một tương lai mới, một tương lai do chính chúng ta tạo ra.


Thực hiện
Xiang Ling, Chen Nuojia, Yang Ziyao
Wu Chenxi, Shi An, Liu Lin

Tổng hợp & Biên tập
Anh Nguyên