Tâm hồn dân tộc qua tranh dân gian

Qua một số tranh dân gian (ở làng Hồ) của ông cha ta, tôi định gợi lên những cái mà tôi muốn cứ tạm gọi gộp lại là tâm hồn dân tộc trong tranh dân gian Việt nam. Và cũng chỉ định nêu lên một vài khía cạnh của vấn đề.

Xin lấy một hai bức tranh dân gian làm ví dụ : tranh gà đàn, tranh lợn đàn, hoặc lợn độc — lợn ăn dáy. (Loại tranh với đề tài này ở làng Hồ có nhiều bức không giống nhau hẳn, tuy ý nghĩa và cách bố cục chúng có giống nhau về đại thể vì có thể xưa kia chúng sinh ra từ một gốc).

Tranh đàn lợn âm dương
Tranh lợn ăn dáy

Nếu nói: mấy tranh này đều nhằm nói lên cái mơ ước của người nông dân được sung túc, gà lợn đầy đàn,… thì cũng đúng. Đó cũng là một mơ ước, một chúc tụng. Song trước khi chuyển chúng sang hàm ý chúc tụng, thì nó đã là những tranh phản ánh, mô tả sinh hoạt hàng ngày trong đời sống nông nghiệp của ta. Ước mơ này có lãng mạn, nhưng không đè nặng bởi hệ ý thức tôn giáo, tín ngưỡng. Nó là những mong ước lấy thực tiền làm cơ sở, lấy cái vốn đang có thực quanh ta, rồi nâng lên, và biến chúng trở thành cái ước mơ. Đó không phải là ảo tưởng, hư vô, siêu phàm từ trên trời tụt xuống.

Những cái vốn có thực quanh ta đó chính là nền tảng làm cho ta có được sức phong phú thiên hình vạn trạng trong cách nhìn, nhiều khả năng sinh hoạt sáng tạo trong tư tưởng, súc tích giàu có trong tâm hồn, tự do phóng túng thoải mái trong thể hiện. Nó không bị vun vén, gò bó khô khan theo một ước lệ, khuôn thước định sẵn nào đó đã có trước. Nếu không phải là một người đã từng sống nhiều năm ở nông thôn, quen thuộc, và có hiểu biết về sản xuất và chăn nuôi nông nghiệp trong hoàn cảnh, điều kiện, đặc điểm cụ thể như ở nước ta, thì khó mà vẽ được mấy con gà, lợn như ở trong mấy bức tranh này. Kinh nghiệm và hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn trong sản xuất và chăn nuôi nông nghiệp xưa đã cho phép người nông dân dần dần tông kết rút ra những điều cần thiết thuộc về cuộc sống, và thuộc về hình tượng nghệ thuật trong mô tả và bố cục của tranh. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà con gà mái mẹ lại được vẽ lên cùng với mươi con gà con quây quần xúm xít xung quanh.

Hoặc con lợn mẹ lại có dăm con lợn con đứng cạnh. Con số 10 và 5 ở hai tranh trên bề ngoài có vẻ bình thường, ít quan trọng, ít được chú ý, tuy nhiên, chắc hẳn cũng là những con số đã từng được cân nhắc, đắn đo. Dù sự cân nhắc đó, trong trường hợp này, chi thuộc về tư duy hình tượng, có rung cảm thẩm mỹ, và chỉ nằm trong đầu óc nghệ sĩ trải qua quá trình sáng tạo, có khi rất nhanh, chỉ lướt qua. Thậm chí thông thường nó trở thành như là một bản năng vốn đã từng có sẵn của nghệ sĩ dân gian. Một gà mái nuôi mấy con là tốt nhất? Thích mắt nhất ? Nếu một mái mẹ chỉ ấp nở được vài ba con thì chăn nuôi như thế chẳng ăn thua, không sinh sôi nảy nở được gì. Nhưng cho ấp quá nhiều thì sao? Thì gà mái ấp cũng được, nó cũng biết đảo trứng. Tuy nhiên vẫn hơi nhiều đối với nó, dễ sót lọt trứng ung. Hoặc khi nở, mà đàn con chen chúc đông quá, thì gà mẹ nom cũng vất vả, khó trông coi bảo vệ xuể. Vì vậy, mươi con phải chăng là con số vừa phải nhất? Về lợn, xưa kia ta nuôi lợn đẻ cũng vậy. Đẻ hai ba con thì ít quá, nhưng hàng chục con thì lợn mẹ không đủ sữa, sức chăm có hạn, lợn con còi và chậm lớn (có khi người nông dân phải cho bớt lợn con đi, chỉ để lại một số lượng cần thiết, vừa sức). Vì vậy, phải chăng đàn lợn con cũng chỉ nên có độ năm con là vừa phải ? (Tất nhiên đây là quan niệm và kinh nghiệm về chăn nuôi lúc bấy giờ, trong điều kiện nhân dân ta đang sống trong một nền kinh tế nông nghiệp, tuy đã có sớm, nhưng còn nghèo nàn và phát triển chậm. Khi chăn nuôi đã hiện đại hóa, đã trở thành nền chăn nuôi công nghiệp, thì vấn đề đặt ra và giải quyết lại phải khác).

Tranh Đông Hồ đàn gà con cầu chúc cho sự sung túc, đông con và an nhàn.

Ngẫm thấy, người nghệ sĩ dân gian làng Hồ vốn là người nông dân lão luyện, biết chăn nuôi giỏi, có cơ sở để quan sát, nghiền ngẫm, biểu hiện những tập quán, kinh nghiệm, tình cảm, rung động, ước mơ của mình phù hợp, nhuần nhuyễn với sự quan sát, nhận xét, kinh nghiệm, tình cảm, suy nghĩ, mơ ước… của đông đảo bà con nông dân khác đang sống xung quanh?

Con lợn mẹ, con gà mẹ trong tranh có đầy đủ vóc dáng vừa đại thể vừa chi tiết bộ phận. Nó đã được người nông dân chăn nuôi ở một nước nông nghiệp (như Việt Nam) xưa, lựa lọc, kén chọn, công nhận, thích thú và mong ước (ví dụ như: lưng võng xuống, mông tròn mẩy, má phính mõm ngắn, vú đều và căng, có khoáy âm dương, cây dáy hoặc khoai nước, con dế hoặc con mối, bộ lông gà dày đều, chân gà thấp. v.v…). Không những thế, cùng lúc với nhiệm vụ mô tả và phản ánh (tâm trạng), người nghệ sĩ dân gian còn chứa đựng trong sức quyến rũ của tờ tranh những tư tưởng và tình cảm đã được nâng lên thành triết học, nhân sinh quan, một chủ nghĩa. Đây còn là những con lợn mẹ, con gà mẹ mang đầy đủ những tình cảm mẹ con dịu hiền trong tư thế đùm bọc, quấn quýt, trong đôi mắt lim dim hiền từ… Đặc biệt các chi tiết con gà mẹ ngậm con mồi có dáng con dế. Nó ngậm nhẹ để con mồi không thoát nổi nhưng vẫn còn ngon lành không giập nát, và ta nghe đâu như có tiếng cục cục gọi con quen thuộc đang nhè nhẹ lách tách bật ra từ họng con gà mẹ. Cái tình mẹ con ở đây, phải chăng đã được người nghệ sĩ dân gian nhân cách hóa? Và tấm lòng mẹ chắt chiu nuôi dưỡng lũ con, nhịn miệng để dành nhường cho con những thức ăn ngon lành nhất cũng là đạo lý thông thường trong tình cảm mẹ con đã ăn sâu vào tâm hồn chúng ta, được coi là một hình ảnh đẹp đẽ, một rung cảm nghệ thuật phong phú, một hình tượng vừa có chân, có thiện, có mỹ. Phải chăng chính tình cảm, đạo lý này đã phản ảnh, nuôi dưỡng, và sản sinh những tâm hồn bà mẹ Việt Nam từng chắt chiu dành dụm tần tảo nuôi con, lấy hạnh phúc của con làm hạnh phúc của mình.

Thương yêu mọi người như thương yêu chính mình, có khi còn hơn thế. Và chính vì tình cảm và tâm hồn đẹp đẽ đó, nhân dân ta đã biết bảo vệ những người mình yêu thương bằng mọi cách, bằng hết sức lực của mình. Họ thấy rõ và biết khinh ghét, căm thù những kẻ nào khuấy động làm tan vỡ, vùi dập tình thương yêu đó. Chính vì thương người mà họ biết phân biệt đề ghét người. Họ thương những người đàn bà hiền lành, nên họ ghét những kẻ cướp chồng tranh vợ. Tranh “Đánh ghen” phải chăng chính là mũi tên có giá trị nhân đạo bắn vào chế độ đa thê đã từng vùi dập hạnh phúc của bao nhiêu người đàn bà hiền lành tần tảo như người chị người mẹ của họ? Họ biết căm ghét những bất công trong xã hội đã từng luôn luôn đè nén, ức hiếp bà con, họ hàng, xóm giềng… Họ lại càng căm ghét những kẻ thù bên ngoài ập đến gây đau thương tang tóc trên mảnh đất quê hương Tổ quốc mình.

Tranh Đánh ghen

Tranh “Rước chuột” (hoặc “Chuột vinh quy”) phải chăng đã chứa đựng trong đó lòng căm phản đối với những tệ nạn xã hội, đối với những hành vi bòn vét chiếm đoạt của tầng lớp thống trị, đã từng làm khổ sở điêu đứng bà con, xóm làng của họ vốn xưa nay vẫn yên ôn cần cù làm ăn ? Những tranh lịch sử Bà Trưng đánh giặc, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung phá ngoại xâm, v.v… chắc hắn cũng là những tranh bộc lộ tình cảm yêu quí đối với những anh hùng dân tộc, đã đứng lên đánh đuổi giặc ngoài, bảo vệ sự sống yên lành của bà con, xóm làng mà họ vốn yêu thương. Tâm hồn dân tộc phải chăng chính là ở đó?

Tranh dân gian Đông Hồ – Đám cưới chuột

Trong một số tranh tôn giáo (tranh thờ) tuy còn chứa đựng nhiều tàn dư lạc hậu (tranh Phật, tranh Thập điện, v.v.) nhưng có lúc nào đó, có những khía cạnh phù hợp với tình cảm, nếp suy nghĩ của nhân dân ta, nó mang trong đó những mặt của chủ nghĩa nhân đạo dân tộc ta vốn có từ lâu đời, do đó, tranh này dễ được nhân dân yêu thích, dễ phù hợp với tâm hồn dân tộc của nhân dân về mặt tình cảm. Dù rằng đối với tầng lớp thống trị phong kiến thì chúng lại có ý đồ lợi dụng sức mạnh tôn giáo đề củng cố địa vị, ru ngủ, mê hoặc, lừa bịp, và đánh lạc hướng cách sống của người dân. Những nét hiền từ trên gương mặt Phật, sự oai nghiêm chính trực trên mặt các ông vua Diêm vương, những cảnh tả Thập điển, những nét thùy mị của các bà Tiên, bà Chúa, v.v…. đều chứa đựng trong đó những khía cạnh của lòng nhân đạo mà từ bao đời nhân dân ta khao khát mong ước.

Về phương diện biểu hiện, tùy từng lúc từng người sáng tác mà màu sắc của tranh, cách thể hiện, bố cục, cách khắc ván, cách in, v.v… có thể đổi thay, đổi lúc tùy tiện, nhưng cái mạch sống tâm hồn của tranh vẫn được duy trì, kế thừa. Cái sức sống của tranh, cái đẹp của tranh, cái xúc động thẩm mỹ ở tranh toát ra chính là từ đấy. Có khi nó đến với ta qua phân tích, song thường nó đến thẳng với ta rất nhẹ nhàng, thanh thản, hình như chỉ bằng bản năng, bằng một sự tự nhiên thoải mái nào đó, mà ta không hề suy tính trước, chỉ thấy rung động, cảm xúc thoáng thâm nhập vào ta rất ngọt ngào. Cái điêu luyện về phong cách biểu hiện nghệ thuật đã bắt đầu ngay từ lúc xây dựng nội dung tác phẩm. Bắt đầu ngay từ ở mạch sống tâm hồn.

Đương nhiên cái mạch sống của tranh “Gà đàn” không phải chỉ là câu chuyện mẹ con. Không phải chỉ là đàn gà ríu rít đang sinh sôi nảy nở. Không phải chỉ đơn thuần là chủ đề tư tưởng, là đề tài, là chủ nghĩa nhân đạo. Là một bức tranh, nó có đặc trưng của tranh. Nó còn cần có nhiều yếu tố khác nói lên trọn vẹn nội dung và giá trị nghệ thuật của tranh. Dáng từng con gà con thoải mái duỗi chân rỉa cánh hoặc nhảy chạy trên lưng mẹ (ở tranh gà đàn) đã được miêu tả làm đậm thêm cho chủ đề tư tưởng bức tranh. Từng chiếc lông và toàn bộ bộ lông của gà mẹ đã được cách điệu hóa, điển hình hóa, và sắp xếp khéo léo, đã tôn cách nhìn tạo ra sự cân xứng, ngăn nắp, giản đơn, thanh thoát, nhẹ nhàng cho người xem. Màu sắc ấm áp rải ra, xen kẽ, góp phần làm giàu thêm sức hấp dẫn, làm nhẹ lòng thuận mắt. (Tất nhiên ở tranh gà đàn, màu sắc của từng tranh, ở từng thời gian, có những thay đổi khác nhau, đôi lúc cũng bột phát tùy tiện dễ dàng).

Trong tạo hình, cái thực cái hư được cấu tạo hòa lẫn. Con lợn mẹ có vóc dáng một con lợn núi tốt giống, nhưng lại được cách điệu khác và đẹp ít nhiều. Trên dáng lưng võng xuống là mớ lông thực dày hơn chỗ khác, nhưng lại cũng là mớ lông được cách điệu thông minh. Từng chiếc khoáy, những nếp răn… cái này, cái khác có đặt đúng chỗ, sai chỗ, có mờ, có đậm, có thêm, có bớt, v.v.. đi chăng nữa, thì con lợn tốt giống vẫn hoàn toàn là con lợn tốt giống thân thuộc, đèo theo trên mình những chiếc khoáy âm dương (Hình dáng khoáy vốn dựa vào thể sinh trưởng của lông, và mang ý nghĩa hài hòa, cân xứng, chuyển dịch, liên tục sinh sôi nảy nở. Dĩ nhiên ta hiểu tốt giống theo cách hiệu từ xưa của những nông dân chăn nuôi trong một nền kinh tế còn nghèo nàn, phát triển chậm).

Cái đẹp của tranh, trong đó có tranh dân gian đến với người xem, cùng một lúc phô bày cả cái hay của nội dung ý nghĩa tư tưởng lẫn hình thức biểu hiện. Nội dung nhân dân và tính chất dân gian không những nằm ở trong tư tưởng, tình cảm ý nghĩa, đề tài… của tác phẩm, mà còn nằm ở trong cách thâu tóm cái nhìn, cách quan sát nhận xét… các hình tượng, dưới những thể thức, phong cách phù hợp. Kẻ cả các thể thức về hòa sắc, dùng màu, bút pháp, cách khắc, in, v.v… Có đánh giá bao gồm như vậy mới dễ khen, chê… về một bức tranh dân gian (Việt nam) một cách hoàn chỉnh. Và tâm hồn dân tộc (trong một bức tranh dân gian) là một thứ xúc động tình cảm bao trùm. Nó tỏa vào tranh, và cũng từ tranh, nó toát lên trong một thể cô đọng, tinh kết, thống nhất cả về nội dung lẫn cách biểu hiện nội dung đó.


Tác giả
Vương Như Chiêm

Tổng hợp & Biên tập
Anh Nguyên