Nhà thờ Thiên Chúa giáo tại Việt Nam

Thiên Chúa giáo từ phương Tây vào nước ta muộn, từ thế kỷ XVI nhưng trong nhiều thế kỷ liền cứ đan xen những giai đoạn được tự do truyền giáo rồi lại bị triều đình cấm phải hành đạo lén lút, cho đến nửa sau thế kỷ XIX gắn với cuộc xâm lược của thực dân Pháp và sự nhượng bộ từng bước đi đến đầu hàng của triều đình Huế, thì Thiên Chúa giáo chẳng những được tự do mà còn được nâng đỡ rất mực.

Cho đến nay, số dân theo Thiên Chúa giáo khá đông, một số địa phương trở thành khu công giáo tòng chiếm khoảng 10% dân số, nhiều địa phương thì có sự đan xen với Phật giáo. Với thời gian khá dài và không gian khá rộng, lại với số tín đồ khá đông, thì giáo đường của Thiên Chúa giáo là các nhà thờ cũng cần được xem xét dưới góc độ văn hóa kiến trúc.

Cho tới nay, hầu như chúng ta chưa biết được gì về nhà thờ dựng từ đầu thế kỷ XIX trở về trước, có thể nhà thờ của thời gian đầu còn đơn giản và trong những lúc triều đình cấm đạo thì đã bị phá. Trong số những nhà thờ hiện còn, có thể nhận ra 2 loại gồm: Loại nhà thờ muộn dựng ở thế kỷ XX theo thức kiến trúc phương Tây, cả hình dáng và kỹ thuật xây dựng đều sao chép mẫu của nhà thờ phương Tây, khó ăn nhập với cảnh quan Việt Nam – nhất là ở nông thôn. Trái lại, loạt nhà thờ sớm dựng ở nửa sau thế kỷ XIX lại là những công trình kiến trúc mang đậm sắc thái nghệ thuật dân tộc.

Một nhà thờ xây dựng năm 1889 tại Nam Định. Ảnh: Triệu Chiến

Mặt bên nhà thờ (trên). Ảnh: Triệu Chiến

Có nhà nghiên cứu … đã khảo sát một loạt nhà thờ Thiên Chúa giáo dựng từ thế kỷ XIX trở về trước và nhận thấy ở hai cổng xây kiểu tam quan tại nhà thờ Báo Đáp (Nam Định) được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, nhà thờ xứ Hảo Nho (Tam Điệp – Ninh Bình) được xây dựng vào năm Thành Thái ngũ niên (1893), nhà thờ xứ Bình Sa (Kim Sơn – Ninh Bình) xây dựng vào năm Thành Thái cửu niên (1897) kiến trúc gần giống như một ngôi đình, và tam quan mang dáng dấp của tam quan chùa làng.

Hoặc như nhà thờ xứ Tân Tộc (Nghi Lộc – Nghệ An) có các vì kèo gỗ, các hoa văn hoa cúc cách điệu, sơn son thếp vàng; nhà thờ xứ Ba Làng (Tĩnh Gia – Thanh Hóa) với mái cong, có các đầu đao như kiểu đình chùa, bên trong các bẩy, kẻ chuyền bằng gỗ. Các họa tiết trang trí trên gỗ chạm là các hoa văn theo kiểu “trúc hóa long”, “đào hóa long”, ngoài ra còn có các họa tiết đắp trên cửa ra vào là “mặt hổ phù cách điệu hình lá sen”, nhà thờ này được xây dựng vào năm 1893.

Ở Thừa Thiên – Huế cũng có nhiều nhà thờ công giáo kiến trúc theo dáng dấp phương Đông như nhà thờ An Vân xã Phương An, nhà thờ dòng Chúa cứu thế, nhà thờ xứ Đốc Sơ, tam quan nhà thờ Thánh Tử đạo xứ Tây Lộc… Và đặc biệt đậm đà sắc thái dân tộc trong kiến trúc Thiên Chúa giáo là nhà thờ Phát Diệm (Kim Sơn – Ninh Bình).

Kim Sơn là vùng đất mới, cho đến đầu thế kỷ XIX mới chính thức được khai thác. Chính Nguyễn Công Trứ dưới thời Minh Mạng đã chiêu mộ dân nghèo về đây khẩn hoang, lập làng và thành lập huyện Kim Sơn. Nhằm vào đối tượng là dân nghèo chưa bị lễ giáo phong kiến ràng buộc và cũng chưa có chùa để dựa bóng Phật, Thiên Chúa giáo đã đưa Chúa Giê-su vào làm điểm tựa tinh thần, đặc biệt đề cao Đức Mẹ Ma-ri-a như một sự hóa thân của tín ngưỡng Mẫu, nên đã cắm sâu rễ trên mảnh đất này.

Nguồn ảnh: Làng Việt xưa và nay

Xứ Phát Diệm thuộc vùng đạo Kim sơn, cho đến năm 1865 cha Trần Lục (tức Cụ Sáu) được bổ nhiệm làm linh mục chánh xứ Phát Diệm, thì cơ sở thờ tự chỉ là ngôi nhà lợp cói bổi. Cha Sáu đã sớm có kế hoạch xây dựng lại nhà thờ Phát Diệm, gia cố nền móng, khai thác và tập trung vật liệu, huy động giáo dân, mời các hiệp thợ đá và thợ mộc về để thi công dần từng công trình, cho đến năm 1899 khi cha Sáu mất thì tổng thể kiến trúc nhà thờ Phát Diệm coi như hoàn tất, những phần xây thêm về sau chỉ là chi tiết. Ngày nay có thể nhận thấy ở công trình này những giá trị cao của kiến trúc dân tộc.

Nhà thờ Phát Diệm ngày nay
Kim Sơn, Ninh Bình

Ảnh
Triệu Chiến

Toàn bộ khu nhà thờ Phát Diệm được trải ra trên một diện tích rất rộng, ngoại trừ Nhà thờ đá Trái tim Đức Mẹ và núi Sọ được dựng sớm ở góc phải đằng sau, thì tổng thể còn lại được bố trí cân đối, gồm những kiến trúc quan trọng ở trên trục chính và những kiến trúc phụ ở hai bên, tất cả được mở ra nhìn về hướng Nam là hướng cơ bản có tính chính thống của đình – đền cổ truyền. Trong mặt bằng rộng, các phần của kiến trúc dàn trải ra, có nhà cửa, có vườn, thảm cỏ, có những cây cao rải rác, có các núi đá giả ở đằng sau và gương nước hồ rộng ở đằng trước… tất cả hòa quyện vào nhau, phát triển theo hướng dàn ngang mà không vươn cao như thường thấy ở các chùa – đền – đình. Và do đó con chiên cảm thấy Chúa và các thánh không xa vời với họ.

Phương đình. Ảnh: Triệu Chiến

Mặt bằng nhà thờ đá Phát Diệm. Nguồn: Internet

Các kiến trúc ở đây từ Nhà thờ đá Trái tim Đức Mẹ, Nhà thờ lớn Kính Đức Đức Mẹ Mân Côi, đến các nhà thờ nhỏ Trái tim Chúa Giê-su, Thánh Rô-cô, Thánh Giu-se và thánh Phê-rô đều cấu trúc theo thức kiến trúc cổ Việt Nam, các thành phần kết hợp theo mộng mẹo tạo thành bộ khung gỗ (Nhà thờ đá cũng theo kiểu khung gỗ), chúng giằng nhau chắc chắn và dồn toàn bộ trọng lượng vào các cột để rồi chuyển xuống nền nhà, móng tườngng ở đây không quan trọng và thực tế xung quanh cơ bản là cánh cửa có thể đóng mở để điều chỉnh ánh sáng và nhiệt độ, chứ không phải tường xây cố định bít kín.

Ảnh: Triệu Chiến

Bộ khung nhà ấy có đủ cột cái – cột quân – cột hiên, có thượng lương, câu đầu, xà, hoành, bẩy; các gian được chia hai bên có hiện rộng, mái kiểu chồng diêm có tàu mái và bờ nóc. Tuy nhà làm theo chiều dọc, cửa chính ở đầu hồi phía nam, vào trong nhà hun hút về gian cung Thánh, song nhờ hệ thống cửa và chấn song mà đứng ở gian nào cũng thấy gần gũi ngoại cảnh. Ngay ở Nhà thờ đá, vách có những chắn song và những bức chạm thủng thông gió cùng lấy đề tài tứ quý (mai – trúc – cúc – tùng), phượng hàm thư và sư tử bờm dài.

Ảnh: Triệu Chiến

Hàng cột và chi tiết điêu khắc. Ảnh: Triệu Chiến

Lăng cụ Sáu. Ảnh: Triệu Chiến

Mặt tiền của Nhà thờ đá và các nhà thờ Thánh được xây theo kiểu 3 lối ra vào gợi ra các tam quan chùa, phía trên 2 cửa phụ có tháp vuông nhiều tầng với các mái uốn nhẹ và đao cong vút trông như những bông hoa và gợi lên kiểu tháp Phật giáo, phía trên cửa chính là tòa tháp lớn hơn nhưng về cơ bản theo 2 mẫu tháp bên. Đặc biệt mặt tiền của tòa nhà thờ lớn phía dưới có 5 lối ra vào bằng đá, phía trên có 3 tháp vuông bằng gạch, gợi ra những cổng ngũ môn ở các đền lớn, phía trên là mái cong vênh tạo ra các đầu đao ở các góc, lợp ngói mũi hài, gợi ra những ngôi nhà tháp quen thuộc. Trên đỉnh tháp giữa có tượng 2 thiên thần cầm thánh giá, hai bên là 2 thiên thần khác thổi loa, bên dưới có đắp to 4 chữ Hán: “Thẩm phán tiên triều” gợi lại các hoành phi phổ biến trong các chùa – đền – đình.

Ảnh: Triệu Chiến

Tòa nhà phía trước bằng đá có nền gần vuông (24m x 17m), được gọi theo hình dáng đã thành tên chung ở nhiều đình đền là Phương đình, chỉ như thế cũng đã gây tâm lý về văn hóa dân tộc được tràn vào kiến trúc mới và dân tộc hóa để trở thành tài sản nghệ thuật quốc gia. Tòa phương đình là điểm khởi đầu cũng là điểm nhô cao nhất của toàn cảnh khu nhà thờ Phát Diệm, gợi đến những gác chuông là điểm chốt của nhiều chùa to, mà nếu tầng 1 có 3 cửa gợi ra tam quan thì ở tầng 2 treo chiếc trống đại thực sự là lầu trống và ở tầng 3 treo quả chuông Nam giống hệt chuông các chùa thì quả thực là gác chuông. Bốn góc của tầng 2 được xây các tháp chồng mái. Mái của các tầng lầu và của các lầu tháp đều được uốn cong uyển chuyển, lại lợp ngói mũi hài, tất cả tạo nên cảm giác kiến trúc truyền thống Việt Nam.

Nhà thờ trái tim Chúa Giêsu. Ảnh: Triệu Chiến

Nhà thờ Trái tim Đức Mẹ. Ảnh: Triệu Chiến

Từ kiến trúc mở sang các hiện vật thiêng cũng luôn như gặp lại đình chùa truyền thống. Nhà thờ Thiên Chúa giáo hầu như không dùng trống, nhưng ở đây lại có chiếc trống đại rất lớn, tang gỗ mít, mặt bịt da trâu, chỉ những dịp lễ trọng (lễ chúa nhật, lễ lớn khác) mới dùng đến. Chuông đồng vẫn thấy ở các nhà thờ Thiên Chúa giáo là chuông Tây – loại chuông khối nón miệng loe rộng, treo trên cao, đánh chuông bằng cách đứng dưới giật dây cho đùi gõ vào thành trong của chuông để phát ra tiếng, có vang nhưng khó tạo nhịp điệu.

Trái lại chuông ở nhà thờ Phát Diệm là chuông Nam y hệt chuông chùa, cao tới 1m9, miệng rộng 1m1 nặng gần 2 tấn, có núm đánh ở phía ngoài và đánh bằng chày đưa ngang. Chuông có 4 núm, mỗi núm khắc một chữ: Xuân – Hạ – Thu – Đông ứng với các phương Đông – Nam – Tây – Bắc giống như chuông chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) và được quy định mùa nào đánh vào núm ấy.

Ảnh: Triệu Chiến

Niên đại khắc trên một số hiện vật và các ngôi nhà cũng đều theo lối cổ truyền: Niên đại đúc trên quả chuông kể trên được ghi rõ “Thành Thái Canh Dần tạo” kèm con số năm 1890. Niên đại ghi trên xà nhà thờ chính là “Thành Thái tam niên ngũ nguyệt thập thất nhật lập thượng lương” và ngày dương lịch tương ứng là 23 – 6 – 1891. Niên đại ghi trên xà nóc nhà phương đình có nơi dùng là thời gian thuộc về năm dương lịch, kèm theo niên hiệu vua, nhưng lại viết bằng chữ Hán “Thiên Chúa giáng sinh nhất thiên bát bánh cửu thập cửu Thành Thái thập niên đông lập trụ thượng lương” (bị che khuất 2 chữ, có thể là niên tạo tức năm dựng).

Nhà thờ Trái tim Đức Mẹ. Ảnh: Triệu Chiến

Nhà thờ Thánh Phêrô. Ảnh: Triệu Chiến

Như vậy, rõ ràng nhiều nhà thờ Thiên Chúa giáo dựng ở nửa sau thế kỷ XIX đã được các kiến trúc cổ truyền dân tộc gợi ý, và người xây dựng (cả thiết kế và thi công) đã tiếp thu nhuần nhuyễn để dân tộc hóa cả những kiến trúc tôn giáo thiêng liêng mà hình mẫu của nó ở những nơi gốc phương Tây đã chuẩn hóa. Chính vì thế nó đã mang vào trong lòng những kiến trúc mới nhiều giá trị nghệ thuật dân tộc để hòa nhập với các kiến trúc cổ truyền khác, cùng là tài sản quốc gia.

Lăng mộ cụ Sáu. Ảnh: Triệu Chiến

Và mở rộng quan niệm thẩm mỹ, vì đây là một phạm trù lịch sử, nó không thể xơ cứng mà luôn phát triển theo tình hình mới của xã hội, thì ngay cả những nhà thờ Thiên Chúa giáo dựng ở thế kỷ XX theo mô hình phương Tây, nhưng trong môi cảnh Việt Nam, cũng dần quen thuộc thẩm mỹ dân tộc, nhất là khi lại được thời đại chấp nhận, thì rồi cũng góp vào bảng giá trị văn hóa dân tộc.


Tác giả
Trần Lâm Biên

Tổng hợp
Anh Nguyên